Bản án 1023/2018/HNGĐ-PT ngày 08/11/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1023/2018/HNGĐ-PT NGÀY 08/11/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 08/11/2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử công khai vụ án thụ lý số 92/2018/TLPT-HNGĐ ngày 31 tháng 8 năm 2018 về vụ việc “Tranh chấp ly hôn”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 667/2018/HNGĐ-ST ngày 18 tháng 7 năm 2018 của Tòa án nhân dân Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 4842/2018/QĐ-PT ngày 15 tháng 10 năm 2018, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Phan T, sinh năm: 1963

Địa chỉ: Ấp A, xã Ti, huyện N, tỉnh B.

Bị đơn: Bà Triệu Thị Mai L, sinh năm: 1976

Địa chỉ: 154/29/4 (số mới 246/27) Đường H, Phường 3, Quận T, Thành phố

Hồ Chí Minh.

Người kháng cáo: Bà Triệu Thị Mai L.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và trình bày của ông Phan T:

Ông và bà Triệu Thị Mai L chung sống năm 2009 có đăng ký kết hôn năm 2012 tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện N, tỉnh B. Trong thời gian chung sống đã phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống, dần dần tình cảm vợ chồng không còn, năm 2012 vợ chồng đã thỏa thuận sống ly thân. Nay nhận thấy tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt và để ổn định cuộc sống của mỗi người nên ông T yêu cầu ly hôn bà Triệu Thị Mai L.

Về con chung: Có 02 con chung tên Phan Thị Hà T1, ngày sinh 04/12/2009 và Phan T2, ngày sinh 29/6/2012. Ông T yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung Phan Thị Hà T1 và giao con chung Phan T2 cho bà L trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Bị đơn bà Triệu Thị Mai L trình bày:

Bà L đồng ý với phần trình bày của ông Phan T về quá trình chung sống và kết hôn. Thời gian đầu chung sống không hạnh phúc, ông T thường xuyên mắng chửi, đánh đập và không tôn trọng bà. Sự việc kéo dài nhiều năm khiến bà bị căng thẳng, ức chế và đến năm 2013 thì vợ chồng chuyển lên Thành phố Hồ Chí Minh sinh sống, cũng trong năm này bà bị ông T đuổi ra khỏi nhà nên vợ chồng mới sống ly thân, chứ không có việc thỏa thuận ly thân. Ngoài ra, ông T và gia đình ông T hạn chế quyền làm mẹ của bà. Nay ông T yêu cầu ly hôn thì bà cũng đồng ý.

Về con chung: Có 02 con chung tên Phan Thị Hà T1, ngày sinh 04/12/2009 và Phan T2, ngày sinh 29/6/2012. Bà L yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng hai con chung và không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Trong thời gian chung sống với nhau giữa bà và ông T có được thừa hưởng từ bố mẹ ông T căn nhà tọa lạc tại ấp A, xã Ti, huyện N, tỉnh B nhưng do ông T đứng tên (Theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất do Ủy ban nhân huyện N, tỉnh B cấp ngày 14/6/2012). Bà L không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này, nếu có tranh chấp thì được giải quyết bằng một vụ án khác.

Về nợ chung: Không có.

Tại bản án số 667/2018/HNGĐ-ST ngày 18 tháng 7 năm 2018 của Tòa án nhân dân Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

1. Về quan hệ hôn nhân: Ông Phan T ly hôn bà Triệu Thị Mai L.

2. Về con chung: Giao ông Phan T được quyền trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung tên Phan Thị Hà T1, ngày sinh 04/12/2009. Giao bà Triệu Thị Mai L được quyền trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung tên Phan T2, ngày sinh 29/6/2012. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho ông Phan T và bà Triệu Thị Mai L.

Khi có lý do chính đáng mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng có thể thay đổi.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo qui định tại khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về tài sản chung: Ông Phan T khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết và bà Triệu Thị Mai L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về nợ chung: Không có.

5. Về án phí: Ông Phan T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm 300.000 đồng được cấn trừ vào tiền tạm ứng án phí ông Phan T đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí số AA/2017/0008231 ngày 23/4/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên quyền kháng cáo và nghĩa vụ thi hành án của đương sự theo luật định.

Ngày 30 tháng 07 năm 2018 bà Triệu Thị Mai L kháng cáo một phần bản án sơ thẩm, với yêu cầu:

Về con chung: Bà là người trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung, không yêu cầu ông Phan T cấp dưỡng.

Về tài sản chung: Bà yêu cầu xem xét lại nhà đất tọa lạc tại ấp A, xã Ti, huyện N, tỉnh B do ông T đứng tên (Theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất do Ủy ban nhân huyện N, tỉnh B cấp ngày 14/6/2012).

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bà Triệu Thị Mai L vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Ông Phan T không đồng ý với yêu cầu kháng cáo của bà L, đề nghị giữ y bản án sơ thẩm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:

Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, thư ký, Hội đồng xét xử và đương sự thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đề nghị không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Triệu Thị Mai L; Giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về tố tụng:

Đơn kháng cáo của bà Triệu Thị Mai L làm trong hạn luật định nên được chấp nhận.

- Xét yêu cầu kháng cáo của bà Triệu Thị Mai L có đủ căn cứ để xác định:

Quan hệ hôn nhân: Ông Phan T và bà Triệu Thị Mai L tự nguyện đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 34, quyển số 01/2012 ngày 17/4/2012 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện N, tỉnh B cấp thì quan hệ hôn nhân giữa ông T và bà L là hôn nhân hợp pháp.

Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết ông Phan T được ly hôn với bà Triệu Thị Mai L, phần này các đương sự không kháng cáo nên phát sinh hiệu lực pháp luật.

Về con chung: Trong quá trình chung sống, ông T và bà L có các con chung là trẻ Phan Thị Hà T1, ngày sinh 04/12/2009 và trẻ Phan T2, ngày sinh 29/6/2012. Do mâu thuẫn bất đồng không thể dung hòa được nên từ năm 2013 ông T và bà L ra ở riêng, không còn sống chung. Khi ra ở riêng thì ông T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ Phan Thị Hà T1, bà L trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ Phan T2 từ đó đến nay.

Bà L kháng cáo yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng hai con chung và cho rằng hiện nay bà có công việc ổn định và thu nhập mỗi tháng vào khoảng 10.000.000 đồng/tháng nên bà có khả năng nuôi hai con chung. Nhưng thực tế, bà L hiện đang ở nhà thuê, một mình bà L thì sẽ khó khăn trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng cả hai con chung, ảnh hưởng đến sự phát triển toàn diện về mọi mặt của các con. Trẻ Trang hiện đang được ông T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, học tập ổn định. Trong bản khai ở tòa án cấp sơ thẩm ngày 06/06/2018 trẻ Trang có nguyện vọng được ở với cha khi cha mẹ ly hôn. Ông T cũng có công việc kinh doanh ổn định, đủ khả năng nuôi con. Mặt khác, tránh sự xáo trộn, phải thích nghi với nơi ở mới cũng như để thuận lợi cho việc sinh hoạt, học tập của các con chung nên cần thiết giữ nguyên hiện trạng như hiện nay là ông T được tiếp tục trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ Trang. Bà L được quyền trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ Trung.

Về tài sản chung: Tại tòa án cấp sơ thẩm, ông T khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, còn bà L thì không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này, nếu có tranh chấp thì được giải quyết bằng một vụ án khác.

Ông T và bà L không yêu cầu tòa án giải quyết về tài sản chung nên cấp sơ thẩm không xét là đúng thủ tục luật định. Do đó việc bà L kháng cáo yêu cầu xem xét lại nhà đất tọa lạc tại ấp A, xã Ti, huyện N, tỉnh B do ông T đứng tên không có căn cứ chấp nhận.

Bà L được quyền khởi kiện bằng một vụ kiện về tranh chấp tài sản chung khi có yêu cầu.

Bà Triệu Thị Mai L phải chịu án phí dân sự phúc thẩm do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 148, Điều 293, Khoản 1 Điều 308, Điều 313 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Triệu Thị Mai L. Giữ nguyên bản án sơ thẩm, xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phan T

- Về quan hệ hôn nhân: Ông Phan T được ly hôn bà Triệu Thị Mai L.

- Về con chung: Giao ông Phan T được tiếp tục trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung tên Phan Thị Hà T1, ngày sinh 04/12/2009. Giao bà Triệu Thị Mai L được quyền tiếp tục trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung tên Phan T2, ngày sinh 29/6/2012. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho ông Phan T và bà Triệu Thị Mai L.

Các bên được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được quyền cản trở quyền này.

Vì quyền và lợi ích của con chung, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu thay đổi việc nuôi và mức cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung: Ông Phan T và bà Triệu Thị Mai L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Không có.

2. Về án phí: Ông Phan T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng được cấn trừ vào tiền tạm ứng án phí ông Phan T đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí số AA/2017/0008231 ngày 23/4/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.

Án phí dân sự phúc thẩm 300.000 đồng bà Triệu Thị Mai L phải chịu được trừ vào theo Biên lai thu số 0008787 ngày 02 tháng 08 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 1023/2018/HNGĐ-PT ngày 08/11/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:1023/2018/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về