Bản án 102/2020/HNGĐ-ST ngày 26/03/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

A ÁN NHÂN DÂN HUYỆN H, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 102/2020/HNGĐ-ST NGÀY 26/03/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 26 tháng 3 năm 2020 tại Toà án nhân dân huyện H xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý: 31/2020/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 02 năm 2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 25/02/2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Phạm Thị H, sinh năm 1999

Địa chỉ: Thôn T, xã P, huyện H, tỉnh Thanh Hóa

Bị đơn: Anh Bách Văn H, sinh năm 1987

Địa chỉ: Thôn T, xã P, huyện H, tỉnh Thanh Hóa

Tại phiên tòa chị H có đơn xin xét xử vắng mặt, anh Bách Văn H vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 04/02/2020, các lời khai trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn chị Phạm Thị H trình bày:

Chị Phạm Thị H và anh Bách Văn H tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn do UBND xã P cấp năm 2015. Sau khi cưới, cuộc sống vợ chồng không có hạnh phúc, thường xuyên sảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh H chời bời, bài bạc, rượu chè, thường xuyên đánh đập chị. Tháng 2 năm 2019, chị H đã làm đơn khởi kiện xin ly hôn anh H. Được Tòa án phân tích, động viên, hòa giải và anh H tha thiết xin đoàn tụ, hứa thay đổi nên chị H đã rút đơn khởi kiện, cho anh H cơ hội sửa đổi để vợ chồng đoàn tụ, nhưng anh H không hề thay đổi, vẫn chứng nào tật nấy. Nay chị H xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh H.

Ti bản tự khai ngày 13/02/2020 và tại phiên hòa giải ngày 18/02/2020, anh Bách Văn H trình bày: Anh và chị Phạm Thị H kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn do UBND xã P cấp năm 2015. Sau khi cưới, vợ chồng chung sống bình thường, cho đến thời điểm hiện tại không có mâu thuẫn gì to tát, thi thoảng vợ chồng có va chạm nhẹ nhưng rồi lại hòa giải được với nhau. Nay chị H làm đơn xin ly hôn, anh H xác định mâu thuẫn vợ chồng chưa lớn, không đến mức phải ly hôn, nên đề nghị Tòa án xem xét để vợ chồng được về đoàn tụ. Trường hợp chị H cố tình ly hôn, anh H đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Về con chung: Chị H, anh H xác định vợ chồng có một con chung là cháu Bách Hoàng Ph, sinh ngày 06/12/2015. Chị H xin được trực tiếp nuôi cháu Bách Hoàng Ph, không yêu cầu anh H cấp dưỡng. Quan điểm của anh H nếu vợ chồng phải ly hôn, anh xin nhường quyền nuôi con cho chị H, chị H không yêu cầu anh phải cấp dưỡng, anh cũng đồng ý.

Về tài sản và công nợ: Chị H và anh H không yêu cầu tòa án giải quyết.

Xác minh tại địa phương xã P, huyện H, tỉnh Thanh Hóa ngày 17/02/2020: Chị Phạm Thị H và anh Bách Văn H kết hôn năm 2015, sau khi cưới, anh H và chị H sinh sống tại địa phương cho đến khoảng tháng 02/2019 chị H có làm đơn xin ly hôn anh H tại Tòa án nhân dân huyện Hoằng, nguyên nhân mâu thuẫn thế nào thì địa phương không được rõ, sau đó chị H rút đơn để vợ chồng về đoàn tụ. Nay chị H lại làm đơn xin ly hôn anh H, quan điểm của địa phương là đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H trình bày nhận xét:

Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án và tại phiên tòa hôm nay, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, đảm bảo thời hạn chuẩn bị xét xử. Nguyên đơn, bị đơn được thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đề nghị HĐXX căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình, xử cho chị Phạm Thị H được ly hôn anh Bách Văn H. Về việc nuôi con chung: Đề nghị HĐXX, giao cháu Bách Hoàng Ph cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi. Chị H không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con nên đề nghị miễn xét. Về tài sản: Chị H và anh H không yêu cầu nên đề nghị miễn xét

Về án phí: Đề nghị HĐXX giải quyết theo quy định của pháp luật.

Quá trình giải quyết vụ án, các bên đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1]. Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Chị Phạm Thị H làm đơn khởi kiện xin ly hôn anh Bách Văn H và xin được nuôi con, đây là quan hệ tranh chấp về hôn nhân gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn - anh H có địa chỉ tại xã P, huyện H, tỉnh Thanh Hóa nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Thanh Hóa theo quy định tại khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[1.2]. Về sự vắng mặt của nguyên đơn, bị đơn:

Nguyên đơn - chị Phạm Thị H có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt.

Ti phiên tòa lần thứ nhất, ngày 10/3/2020, anh Bách Văn H vắng mặt không có lý do mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nên Hội đồng xét xử đã hoãn phiên tòa đồng thời tống đạt ngay quyết định hoãn phiên tòa cho anh H. Tại phiên tòa lần thứ hai, anh H lại vắng mặt không có lý do.

n cứ Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiếp tục đưa vụ án ra xét xử vắng mặt chị H, anh H là đúng quy định của pháp luật.

[2] Về Nội dung:

[2.1]. Về hôn nhân: Anh Bách Văn H và Chị Phạm Thị H tự nguyện kết hôn và có đăng lý kết hôn tại UBND xã P năm 2015 là hôn nhân hợp pháp. Sau khi cưới, chị H cho rằng vợ chồng chung sống không hạnh phúc, nguyên nhân do anh H chời bời, bài bạc, rượu chè, thường xuyên đánh đập chị nên xin được ly hôn anh H; anh H lại cho rằng vợ chồng không có mâu thuẫn gì to tát, thi thoảng có va chạm nhẹ nhưng tự hòa giải được nên đề nghị Tòa án xem xét để vợ chồng đoàn tụ. Hội đồng xét xử nhận định: Tháng 02/2019, chị H đã làm đơn khởi kiện xin ly hôn anh H, sau đó đã rút đơn để vợ chồng về đoàn tụ, cho nhau cơ hội để đôi bên cùng sửa đổi, khắc phục mâu thuẫn vợ chồng, nay chị H lại khởi kiện xin ly hôn anh H, cho thấy anh chị đã không thể hóa giải được mâu thuẫn, có cơ sở xác định hôn nhân của anh chị đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho chị Phạm Thị H được ly hôn anh Bách Văn H.

[2.2]. Về con chung: Chị H và anh H có một con chung là cháu Bách Hoàng Ph, sinh ngày 06/12/2015. Chị H có nguyện vọng xin được trực tiếp nuôi con, không yêu cầu anh H cấp dưỡng. Anh H đồng ý nhường quyền nuôi con cho chị H và đồng ý với đề nghị không phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị H. Xét thấy, anh H và chị H đã thống nhất được người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con nên cần tôn trọng sự tự định đoạt của anh chị.

[2.3]. Về tài sản và công nợ: Chị H và anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[2.4]. Về án phí: Nguyên đơn chị Phạm Thị H phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 56, Điều 81, khoản 1,3 Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án;

X:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Phạm Thị H được ly hôn anh Bách Văn H.

2. Về con chung: Giao cháu Bách Hoàng Ph, sinh ngày 06/12/2015 cho chị Phạm Thị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi cháu Bách Hoàng Ph đủ 18 tuổi, anh Bách Văn H không phải cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Phạm Thị H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn đã nộp là 300.000đ(Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số: AA/2019/0009744 ngày 05/02/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện H, tỉnh Thanh Hóa. Chị H đã nộp đủ.

4. Về quyền kháng cáo: c đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 102/2020/HNGĐ-ST ngày 26/03/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:102/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoằng Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về