TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KẾ SÁCH, TỈNH SÓC TRĂNG
BẢN ÁN 102/2020/DS-ST NGÀY 26/09/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Ngày 26 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 196/2020/TLST-DS, ngày 16/7/2020 về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 342/2020/QĐXXST-DS, ngày 20/8/2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 163/2020/QĐST-DS, ngày 07/9/2020, giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Ngân hàng chính sách xã hội A.
Địa chỉ trụ sở chính: phố L, phường H, quận H1, thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Chí C - Chức vụ: Phó Giám đốc Phòng giao dịch Ngân chính sách xã hội huyện K, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).
Địa chỉ trụ sở phòng giao dịch: ấp A, thị trấn K, huyện K1, tỉnh Sóc Trăng.
* Bị đơn: Ông Lâm P, sinh năm 1956 (vắng mặt).
Địa chỉ: ấp N, xã T, huyện K, tỉnh Sóc Trăng.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Lâm Thị H, sinh năm 1969 (vắng mặt).
Địa chỉ: ấp N, xã T, huyện K, tỉnh Sóc Trăng.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam do Phòng giao dịch Ngân chính sách xã hội huyện K, tỉnh Sóc Trăng làm đại diện, thì vụ án có nội dung như sau:
Ngày 29/12/2016 Phòng giao dịch Ngân chính sách xã hội huyện K, tỉnh Sóc Trăng cho hộ ông Lâm P và bà Lâm Thị H là vợ đồng thời là người thừa kế của ông Phước, vay số tiền vốn là 50.000.000đ; lãi trong hạn 0,75%/tháng, lãi quá hạn 0,78%/tháng; lãi quá hạn bằng 130% lãi trong hạn; thời hạn vay 60 tháng; kỳ hạn trả nợ vốn: 12 tháng/lần; hạn trả cuối cùng 14/12/2021; mục đích: Chăn nuôi heo và buôn bán nhỏ. Ông P và bà H không trả vốn và đến nay chỉ trả được 12.257.193đ tiền lãi là vi phạm nghĩa vụ trả vốn và lãi theo thỏa thuận mà các bên đã ký.
Vì vậy, nguyên đơn là Ngân hàng Chính sách Xã hội Việt Nam do Phòng giao dịch Ngân hàng Chính sách Xã hội Việt Nam huyện K, tỉnh Sóc Trăng đại diện khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng giải quyết buộc ông Lâm P và bà Lâm Thị H trả tiền vốn và lãi tính đến ngày 23/6/2020 là: 53.373.974đ (trong đó, tiền vốn là 50.000.000đ và tiền lãi là 3.373.974đ) và yêu cầu tiếp tục tính lãi cho đến khi trả hết nợ cho Ngân hàng theo mức lãi suất của hợp đồng đã ký.
Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn P đã trả được một khoản tiền lãi. Vì vậy, tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện, cụ thể là Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Sóc Trăng giải quyết buộc ông P và bà H phải trả tiền vốn và lãi tính đến hết ngày xét xử là ngày 26/9/2020 với số tiền là: 52.154.000đ (trong đó, tiền vốn là 50.000.000đ và tiền lãi là 2.154.000đ) và yêu cầu tiếp tục tính lãi từ ngày 27/9/2020 cho đến khi trả hết nợ vốn vay cho Ngân hàng theo mức lãi suất của hợp đồng mà các bên đã ký.
* Đối với bị đơn Lâm P và người có liên quan quan Lâm Thị H: Từ khi thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng đã tóm tắt nội dung đơn khởi kiện và các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là Ngân hàng Chính sách Xã hội Việt Nam do Phòng giao dịch Ngân hàng Chính sách Xã hội Việt Nam huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng làm đại diện, tại Thông báo về việc thụ lý vụ án số 583/TB-TLVA, ngày 16/7/2020 và đã tống đạt hợp lệ cho ông P và bà H nhưng ông P và bà H không gửi văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Sau đó, Tòa án đã triệu tập hợp lệ ông P và bà H tham dự phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải 02 lần nhưng ông P và bà H không tham dự. Vì vậy, Tòa án đã thực hiện đầy đủ các thủ tục tố tụng và đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.
* Ý kiến của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng tại phiên tòa như sau:
- Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và người đại diên nguyên đơn tuân thủ và chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, bị đơn P và người liên quan H chưa thực hiện đúng quy định tại Điều 70 và Điều 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn Phước và người liên quan Hai phải trả số tiền vốn và lãi còn thiếu cho Ngân hàng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
- Tại phiên tòa sơ thẩm, mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai, nhưng ông Pvà bà H vẫn vắng mặt không rõ lý do. Tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt ông P và bà H theo quy định của pháp luật. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, quyết định xét xử vắng mặt ông P và bà H.
- Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn P đã trả được một khoản tiền lãi. Tính đến hết ngày xét xử là ngày 26/9/2020, số tiền vốn và lãi ông P bà H còn thiếu Ngân hàng là: 52.154.000đ (trong đó, tiền vốn là 50.000.000đ và tiền lãi là 2.154.000đ). Vì vậy, tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng giải quyết buộc ông P và bà H phải trả tiền vốn và lãi tính đến hết ngày xét xử là ngày 26/9/2020 với số tiền là: 52.154.000đ. Xét thấy, việc thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là trong phạm vi khởi kiện ban đầu và đúng quy định tại khoản 1 Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân sự nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[2] Về nội dung vụ án:
Tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn yêu cầu Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Sóc Trăng giải quyết buộc ông P và bà H phải trả tiền vốn và lãi tính đến hết ngày xét xử là ngày 26/9/2020 với số tiền là: 52.154.000đ (trong đó, tiền vốn là 50.000.000đ và tiền lãi là 2.154.000đ) và yêu cầu tiếp tục tính lãi từ ngày 27/9/2020 cho đến khi trả hết nợ vốn vay cho Ngân hàng theo mức lãi suất của hợp đồng mà các bên đã ký.
Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì thấy rằng: Việc vay tiền của ông P tại Ngân hàng có xảy ra trên thực tế thể hiện tại các giấy đề nghị vay vốn, giấy ủy quyền và sổ lưu tờ rời theo dõi cho vay - thu nợ - dư nợ mà ông P và bà H đã ký tên, cụ thể như sau: Ngày 27/12/2015 ông P có ký tên vào Giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn vay của chương trình cho vay hộ sản xuất kinh doanh vùng khó khăn của Phòng giao dịch Ngân chính sách xã hội huyện K, tỉnh Sóc Trăng với số tiền vốn là 50.000.000đ.
Sau khi vay, ông P và bà H chỉ trả được tiền lãi và chưa trả vốn. Do ông P và bà H vi phạm nghĩa vụ trả vốn và lãi nên Ngân hàng khởi kiện để thu hồi vốn và lãi. Theo Bảng kê nợ gốc lãi do Ngân hàng cung cấp cho Tòa án được lưu trong hồ sơ vụ án, thì tính đến hết ngày 26/9/2020, ông P và bà H còn thiếu ngân hàng 52.154.000đ (trong đó, tiền vốn là 50.000.000đ và tiền lãi là 2.154.000đ) Khoản 1 Điều 466 của Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn. Do ông P và bà H đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên việc nguyên đơn khởi kiện yêu cầu ông P và bà H phải thanh toán tiền vốn vay và tiền lãi còn thiếu tính đến hết ngày 26/9/2020, tổng cộng là 52.154.000đ là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[3] Án phí sơ thẩm:
Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận toàn bộ, nên bị đơn Phước và người liên quan Hai phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, cụ thể là: 52.154.000đ x 5% = 2.607.500đ (đã làm tròn số).
Đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận như những căn cứ và phân tích nêu trên.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; khoản 3 Điều 228; khoản 1 Điều 244; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Căn cứ Điều 103, Điều 280, Điều 463, Điều 466 và Điều 688 của Bộ luật dân sự năm 2015;
- Căn cứ Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;
- Căn cứ khoản 16 Điều 4, Điều 12, Điều 90, Điều 91, Điều 95 và Điều 98 của Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, được sửa đổi bổ sung năm 2017 và Văn bản hợp nhất số 07/VBHN-VPQH ngày 12/12/2017 của Văn phòng Quốc hội.
- Căn cứ Án lệ số 08/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thông qua ngày 17/8/2016 và công bố theo Quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17/10/2016 của Chánh án Toà án nhân dân tối cao.
- Căn cứ Luật Thi hành án dân sự năm 2008, đã được sửa đổi bổ sung năm 2014;
- Căn cứ Điều 7, Điều 8 và Điều 13 của Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm.
- Căn cứ khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam.
1. Buộc bị đơn Lâm P vợ là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Lâm Thị H phải có nghĩa vụ liên đới trả cho nguyên đơn là Ngân hàng Chính sách Xã hội Việt Nam do Phòng giao dịch Ngân hàng Chính sách Xã hội Việt Nam huyện K, tỉnh Sóc Trăng đại diện nhận, số tiền vốn vay là 50.000.000đ (năm mươi triệu đồng) và tiền lãi tính đến hết ngày 26/9/2020 là 2.154.000đ (hai triệu, một trăm năm mươi bốn ngàn); tổng cộng tiền vốn và lãi là: 52.154.000đ (năm mươi hai triệu, một trăm năm mươi bốn ngàn đồng) Kể từ ngày 27/9/2020, ông P và bà H còn phải tiếp tục trả cho nguyên đơn là Ngân hàng Chính sách Xã hội Việt Nam do Phòng giao dịch Ngân hàng Chính sách Xã hội Việt Nam huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng đại diện nhận, số tiền lãi trên số tiền vốn vay là 50.000.000đ (năm mươi triệu đồng) theo mức lãi suất nợ quá hạn mà các bên đã ký.
2. Án phí sơ thẩm: Ông P và bà H phải chịu 2.607.500đ (hai triệu, sáu trăm lẻ bảy ngàn, năm trăm đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử theo thủ tục phúc thẩm. Đối với ông P và bà H thời hạn kháng cáo nêu trên được tính từ ngày ông P và bà H nhận được bản án hoặc ngày bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.
Bản án 102/2020/DS-ST ngày 26/09/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Số hiệu: | 102/2020/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Kế Sách - Sóc Trăng |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 26/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về