Bản án 102/2019/HSST ngày 22/08/2019 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ VÕ, TỈNH B NINH

BẢN ÁN 102/2019/HSST NGÀY 22/08/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 22 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quế Võ, tỉnh B Ninh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 109/2019/HSST ngày 01 tháng 8 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 99/2019/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 8 năm 2019, đối với bị cáo:

Nguyễn Đức T, sinh năm 1964 HKTT: Thôn G, xã VH, huyện QV, tỉnh BN.

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 07/10; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Đức L và bà Nguyễn Thị N (đều đã chết); Gia đình bị cáo có 06 anh em, bị cáo là con thứ tư; Vợ là Lý Thị L, sinh năm 1970 (đã ly hôn) và có 01 con sinh năm 1995; Tiền sự: Không.

Tiền án: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 106/2015/HSST ngày 28/9/2015 của Tòa án nhân dân huyện Quế Võ, tỉnh B Ninh xử phạt 36 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 09/01/2018, chấp hành xong tiền án phí ngày 21/01/2016.

Nhân thân: Ngày 28/6/1990 bị Tòa án nhân dân huyện Quế Võ, tỉnh Hà B xử phạt 10 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa” và 08 tháng tù về tội “Trốn khỏi nơi giam giữ”. Bị cáo chấp hành xong bản án ngày 08/7/1991.

+ Ngày 29/8/2002 bị Tòa án nhân dân tỉnh B Kạn xử phạt 05 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 14/8/2006, chấp hành xong tiền án phí, tiền phạt ngày 29/5/2007.

+ Ngày 23/10/2008 bị Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 36 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 15/12/2010, chấp hành xong tiền án phí ngày 14/9/2009.

Bị cáo bị tạm giữ ngày 25/4/2019 chuyển tạm giam ngày 26/4/2019 cho đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh B Ninh, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Nguyễn Đức T là đối tượng nghiện ma túy, ngày 20/4/2019, T đi chơi tại chợ thành phố B Kạn, tỉnh B Kạn gặp và mua của một người đàn ông không quen biết 900.000đ ma túy được một gói giấy màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng, T mang về nhà cất giấu với mục đích để sử dụng và bán lấy tiền chênh lệch sau đó T đã sử dụng gần hết, số ma túy còn lại T cất trên người. Khoảng 20 giờ, ngày 25/4/2019, T đang ở nhà thì có C là bạn bè quen biết xã hội với T (T không biết họ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể của C) gọi điện hỏi mua ma túy của T, T đồng ý. Khoảng 10 phút sau, Vũ Văn L gọi điện cho T nói: “Em là em anh C, anh để cho em bốn trăm”, T đồng ý và hẹn L lên cổng Khu công nghiệp Quế Võ 3 đi vào 100 mét để bán. T cầm một túi nilon màu trắng một mặt có chữ màu xanh, bên trong có hai gói giấy màu trắng có dòng kẻ màu đen, bên trong chứa chất bột màu trắng là ma túy ra chỗ hẹn. T để túi ma túy xuống chân cột điện và đi bộ ra ngoài cách chỗ để ma túy khoảng 01 mét.

Khong 10 phút sau, thì L và anh Nguyễn Văn B đi lên chỗ hẹn gặp T, khi đi gặp T, L nói: “Anh để cho em bốn trăm nghìn”, T nói: “Đưa tiền đây” sau đó L đưa cho T 400.000đ. T cầm tiền đút vào túi quần phía trước bên phải đang mặc và nói với L: “Ra đây anh đưa hàng cho”, L đi cùng với T đến chân cột điện cách đó khoảng 01 mét, T cúi xuống lấy gói ma túy để trước đó đưa cho L. L biết đó là ma túy cần mua nên cầm đút vào túi quần phía trước bên trái của L đúng lúc này thì lực lượng công an bắt quả tang, thu giữ toàn bộ tang vật.

Vật chứng thu giữ gồm: Thu tại túi quần phía trước bên trái L đang mặc một túi nilon màu trắng một mặt có chữ màu xanh, bên trong có hai gói giấy màu trắng có dòng kẻ màu đen, bên trong chứa chất bột màu trắng được niêm phong theo quy định; Thu giữ tại túi quần phía trước bên phải T đang mặc số tiền 400.000đ (gồm 2 tờ tiền mệnh giá 100.000đ, 05 tờ tiền mệnh giá 20.000đ và 10 tờ tiền mệnh giá 10.000đ).

Tại bản Kết L giám định số: 405/KLGĐMT-PC09 ngày 26/4/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B Ninh kết L: “Chất bột màu trắng bên trong hai gói giấy có dòng kẻ màu đen có khối lượng là 0,0684gam, là ma túy; Loại ma túy: Heroine.

Tại cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quế Võ, Nguyễn Đức T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu ở trên.

Với nội dung trên, tại bản Cáo trạng số: 104/CT-VKSQV ngày 31/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ đã truy tố Nguyễn Đức T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà hôm nay, bị cáo Nguyễn Đức T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ đã truy tố và thừa nhận bản cáo trạng truy tố bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Trong phần tranh L, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ thực hành quyền công tố tại phiên toà trình bày lời L tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt: Nguyễn Đức T từ 36 đến 42 tháng tù giam, thời hạn tù tính từ ngày 25/4/2019. Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu huỷ số mẫu vật còn lại sau giám định trong phong bì thư có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B Ninh. Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 400.000đ.

Bị cáo Nguyễn Đức T nhận tội, không có ý kiến gì và không tham gia tranh L với đại diện Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để sớm trở về gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Quế Võ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Đức T tại cơ quan điều tra và tại phiên toà ngày hôm nay phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang; phù hợp với thời gian, địa điểm, tang vật thu được tại hiện trường, lời khai của những người làm chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án xác định được: Hồi 21 giờ, ngày 25/4/2019, tại khu vực cổng khu công nghiệp Quế Võ III, thuộc thôn Guột, xã Việt Hùng, huyện Quế Võ, tỉnh B Ninh; Nguyễn Đức T đã có hành vi bán trái phép chất ma túy có khối lượng là 0,0684 gam; loại ma túy chất Heroine cho Vũ Văn L lấy số tiền 400.000đ thì bị lực lượng Công an bắt quả tang, thu giữ vật chứng và niêm phong theo quy định. .

Như vậy, thấy đã có đủ cơ sở kết L hành vi của Nguyễn Đức T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”, tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự, như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chế độ độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý, gây tác hại lớn về nhiều mặt cho xã hội. Tệ nạn ma tuý làm ảnh hưởng đến các chính sách phát triển kinh tế, xã hội của Nhà nước; việc đấu tranh với các tội phạm về ma tuý hiện nay là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân. Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách để bài trừ tệ nạn này.

Nhưng bất chấp sự ngăn cấm của pháp luật, vì hám lợi bị cáo đã đi vào con đường phạm tội. Hành vi của bị cáo đã tiếp tay làm gia tăng tệ nạn ma tuý trên địa bàn huyện Quế Võ. Chính vì vậy phải đưa ra xét xử bị cáo kịp thời và có hình phạt nghiêm khắc nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy: Bị cáo có 01 tiền án, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 106/2015/HSST ngày 28/9/2015 của Tòa án nhân dân huyện Quế Võ, tỉnh B Ninh xử phạt 36 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 09/01/2018, chấp hành xong tiền án phí ngày 21/01/2016. Bản án này chưa được xóa án tích theo quy định của pháp luật, lần này bị cáo phạm tội là tái phạm đây là tình tiết tăng nặng được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Ngoài ra bị cáo đã 03 lần bị Tòa án nhân dân các cấp đưa ra xét xử nhưng đến nay các bản án này đã được xóa án tích theo quy định của pháp luật. Điều này chứng tỏ bị cáo là người rất coi thường pháp luật, khó giáo dục cải tạo nên xét thấy cần phải có một mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định nhằm giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt có ích cho xã hội. Tuy nhiên tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã có thái độ khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn, hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, khi lượng hình cũng cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

Thi gian bị cáo bị tạm giữ, tạm giam được trừ đi thời gian chấp hành hình phạt tù theo quy định của pháp luật.

Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính cần phạt bị cáo một khoản tiền sung công quỹ Nhà nước mới đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật nhưng xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Đi với người đàn ông tại chợ thành phố B Kạn, tỉnh B Kạn đã bán ma túy cho T (theo lời khai của T), T không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể ở đâu, nên cơ quan điều tra tiếp tục xác minh và xử lý sau là phù hợp.

Đi với người đàn ông tên C gọi điện hỏi mua ma túy của T ngày 25/4/2019, T không biết họ tên, tuổi, địa chỉ của T ở đâu nên cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ và sẽ xử lý sau là phù hợp.

Đi với Vũ Văn L là người mua ma túy của T mục đích để sử dụng, sau khi lấy lời khai, lợi dụng sơ hở L đã bỏ trốn. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh tại thôn Cựu Tự, xã Ngọc Xá, huyện Quế Võ không có ai có lý lịch như L đã khai nên tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau là phù hợp.

Đi với Nguyễn Văn B là xe ôm chở L đến gặp T ở khu công nghiệp Quế Võ III, B không biết việc chở L đi là để mua ma túy nên cơ quan điều tra Công an huyện Quế Võ không xử lý đối với B là phù hợp.

Về vật chứng của vụ án: Tịch thu tiêu huỷ số mẫu vật còn lại sau giám định trong phong bì thư có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B Ninh. Đối với số tiền 400.000đ thu của T đây là số tiền do phạm tội mà có nên cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

Đi với chiếc điện thoại di động Viettel màu xanh của T và chiếc điện thoại di động 1280 của L sử dụng để liên lạc mua bán ma túy, quá trình bắt quả tang đã làm rơi mất, cơ quan điều tra đã truy tìm nhưng không thu hồi được.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Đức T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý.

Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự; Điều 136, Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án xử phạt: Nguyn Đức T 36 (Ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 25/4/2019. Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo thi hành án.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu huỷ số mẫu vật còn lại sau giám định trong phong bì thư có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B Ninh. Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 400.000đ. (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 01/8/2019 giữa Công an huyện Quế Võ với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quế Võ).

Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Đức T phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 102/2019/HSST ngày 22/08/2019 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

Số hiệu:102/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quế Võ - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về