Bản án 102/2019/HS-PT ngày 20/06/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 102/2019/HS-PT NGÀY 20/06/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 84/2019/TLPT-HS ngày 03 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo La Thanh T. Do có kháng cáo của bị cáo La Thanh T đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 91/2019/HS-ST ngày 02 tháng 4 năm 2019 của Tòa án nhân dân thị xã D, tỉnh Bình Dương.

- Bị cáo có kháng cáo:

La Thanh T, sinh ngày 11/10/1999 tại tỉnh Sóc Trăng; thường trú: Ấp B, xã Đ, huyện K, tỉnh Sóc Trăng; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 4/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; con ông La Thanh H, sinh năm 1971 và con bà Ngô Thị o, sinh năm 1973; bị cáo có 01 chị ruột sinh năm 1995; tiền sự, tiền án: Không, bị bắt tạm giam ngày 02/12/2018, có mặt.

Ngoài ra trong vụ án còn có 01 bị cáo và 01 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng không có kháng cáo, kháng nghị nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 02/12/2018 bị cáo La Thanh T gặp người tên Tr (không rõ nhân thân) tại phường Linh Xuân, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, Tài được Tr đưa 02 gói nylon chứa ma túy (Tr nói giá 1.400.000 đồng), 01 điện thoại di động hiệu Oppo có sim số 0933.629.401, Tr nói “người mua ma túy sẽ liên lạc qua số điện thoại 0933.629.401, bán được hết ma túy Tr cho T 700.000 đồng”. Vào lúc 09 giờ 45 phút ngày 02/12/2018, bị cáo Nguyễn Minh S điện thoại theo số 0933.629.401 gặp Tài hỏi mua 1.400.000 đồng ma túy, T hẹn gặp S tại khu vực khu phố Nội Hóa 1, phường Bình An, thị xã D, tỉnh Bình Dương. Sau đó S điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, biển số 59X2 - 268.17 đến gặp Tài, khi gặp S dừng xe, Tài ngồi lên xe cho S điều khiển, cả hai lưu thông trên đường Nguyễn Phong sắc khu phố Nội Hóa 1, phường Bình An, thị xã D, tỉnh Bình Dương. Trên đường đi S lấy số tiền 1.400.000 đưa cho T, Tài lấy 02 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng lần lượt bỏ vào túi quần bên phải, bên trái của s (mỗi túi quần 01 gói nylon). Đến khoảng 10 giờ cùng ngày, khi cả hai lưu thông đến trước số nhà 474B/26B đường Nguyễn Phong sắc, khu phố Nội Hóa 1, phường Bình An, thị xã D, tỉnh Bình Dương. T và S bị lực lượng tuần tra Công an phường An Bình, thị xã D, tỉnh Bình Dương kiểm tra hành chính lập biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang đối với S, S giao nộp 02 gói ma túy.

Vật chứng thu giữ: 02 gói nylon hàn kín bên trong chứa chất tinh thể màu trắng; 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter màu xanh trắng, số khung: 10CY-071481, số máy: 55P1-071470, biển số 59X2 - 268.17; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu hồng, sim số 0933.629.401; 01 điện thoại di động hiệu Mobiistar sim số 0785.680.416; tiền Việt nam đồng 1.400.000 đồng (một triệu bốn trăm nghìn đồng).

Vật chứng đã trả lại chủ sở hữu hợp pháp: Xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter màu xanh trắng, số khung: 10CY-071481, số máy: 55P1-071470, biển số 59X2-268.17 đã trả lại anh Đào Ngọc Ẩn (anh Ấn cho bị cáo S mượn xe, không biết S sử dụng xe vào việc phạm tội)

Kết luận giám định số 31/MT-PC09 ngày 07/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng trong 02 gói nylon hàn kín thu giữ từ S gửi giám định là ma túy, trọng lượng 3,5037 gam, loại Methamphetamine.

Tại Bản án hình sụ sơ thẩm số 91/2019/HS-ST ngày 02 tháng 4 năm 2019 của Tòa án nhân dân thị xã D, tỉnh Bình Dương đã quyết định:

1. Tuyên bố bị cáo La Thanh T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 251, điểm s, khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo La Thanh T 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù.

2. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự

Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh S 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù đối với bị cáo Tài, S tính từ ngày 02/12/2018.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 09/4/2019, bị cáo La Thanh T kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa trình bày quan điểm giải quyết vụ án: Về thời hạn kháng cáo, đơn kháng cáo của bị cáo La Thanh T đứng theo thời hạn luật định. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đứng người, đứng tội. Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 03 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù là phù hợp. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không cung cấp tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới nên không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo.

Trong lời nói sau cùng, bị cáo mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các T liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo La Thanh T đã khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, bản cáo trạng và tại phiên tòa như sau: Ngày 02/12/2018, bị cáo Nguyễn Minh S điện thoại cho bị cáo La Thanh T để mua ma túy, S điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, biển số 59X2 - 268.17 (S mượn xe của anh Đào Ngọc Ẩn) đến gặp Tài, sau đó Tài bán cho S ma túy trị giá 1.400.000 đồng. Kết quả giám định ma túy thu giữ từ S là Methamphetamine có trọng lượng 3,5037 gam. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo La Thanh T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[2] Xét kháng cáo của bị cáo La Thanh T về việc xin giảm nhẹ hình phạt: Hội đồng xét xử xét thấy, hành vi của bị cáo T là rất nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý các chất gây nghiện của nhà nước, về nhận thức, bị cáo T biết ma túy (Methamphetamine) là chất gây nghiện nguy hiểm do nhà nước độc quyền và thống nhất quản lý, hành vi mua bán trái phép chất ma túy của bị cáo đe dọa nghiêm trọng đến an toàn trật tự công cộng, sức khỏe và sự phát triển lành mạnh của xã hội; là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các tội phạm hình sự khác. Bị cáo nhận thức được tác hại của ma túy nhưng vì động cơ tham lam, tư lợi mà bị cáo đã bất chấp pháp luật, cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình theo quy định của pháp luật. Khi quyết định hình phạt đối với bị cáo, Tòa án sơ thẩm đã xem xét đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo để xử phạt bị cáo mức hình phạt 03 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù là tương xứng với mức độ, tính chất của hành vi phạm tội của bị cáo.

Bị cáo La Thanh T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới. Do đó, không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo.

[3] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương về việc giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Các phần khác của quyết định án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

[5] Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo La Thanh T phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự;

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo La Thanh T; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 91/2019/HS-ST ngày 02 tháng 4 năm 2019 của Tòa án nhân dân thị xã D, tỉnh Bình Dương.

Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s, khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo La Thanh T 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 02/12/2018.

2. Về án phí hình sự phúc thẩm: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo La Thanh T phải nộp 200.000 đồng.

3. Các phần khác của quyết định án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 102/2019/HS-PT ngày 20/06/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:102/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về