Bản án 102/2019/HNGĐ-ST ngày 30/05/2019 về ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 102/2019/HNGĐ-ST NGÀY 30/05/2019 VỀ LY HÔN

Ngày 30 tháng 5 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 119/2019/TLST-HNGĐ, ngày 18 tháng 2 năm 2019 về việc ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 351/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 17 tháng 5 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Trần Thị Kiều O, sinh năm 1978. (Có mặt).

Địa chỉ cư trú: Ấp 2, xã An X, thành phố Cà M, tỉnh Cà Mau.

Bị đơn: Ông Đào Thanh V ( Đào Thanh D) sinh năm 1972. (Có mặt).

Địa chỉ cư trú: Ấp Tân Thuộc, xã An X, thành phố Cà M, tỉnh Cà Mau.

Ni có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

- Bà Tô Thị Kim C, sinh năm: 1983 (Vắng mặt).

Đa chỉ cư trú: Khóm 4, phường Tân X, thành phố Cà M, tỉnh Cà Mau.

- Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1975. (Vắng mặt).

Đa chỉ cư trú: Khóm 6, phường Tân T , thành phố Cà M, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và lời trình bày của nguyên đơn bà Trần Thị Kiều O trong quá trình giải quyết vụ án, được bổ sung tại phiên tòa thể hiện:

- Về hôn nhân: Bà và ông Đào Thanh V chung sống vợ chồng với nhau năm 2002, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã An X, thành phố Cà M, tỉnh Cà Mau vào ngày 20/12/2002. Quá trình chung sống, thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc nhưng sau đó phát sinh nhiều mâu thuẫn, bất đồng quan điểm, thường xuyên cự cãi, mâu thuẫn chủ yếu do ông V thường xuyên hành hung bà thậm chí gây thương tích cho bà. Trước đây vào năm 2014 bà có làm đơn khởi kiện xin ly hôn với ông V nhưng sao đó bà suy nghĩ và cho ông V cơ hội thời gian sửa chửa bản tính nhưng không có kết quả. Nay bà yêu cầu được ly hôn với ông V.

- Về con chung: Có 01 con tên Đào Văn G, sinh ngày 01/7/2004. Hiện đang sống chung với ông V. Khi ly hôn, bà O xác định ý kiến nguyện vọng của con, sống với ai thì người đó có trách nhiệm nuôi dưỡng, không đặt ra vấn đề cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Bà O xác định vợ chồng có 01 căn nhà tọa lạc tại ấp Tân T, xã An x, thành phố Cà M. Bà xác định bà và ông V tự thỏa thuận nên không yêu cầu giải quyết. Ngoài ra vợ chồng có số tài sản chung là 1,4 lượng vàng 24K, số vàng hiện nay ông Đào Thanh V đang quản lý. Khi ly hôn bà yêu cầu chia đôi số vàng mỗi người 07 chỉ .

Tại bản tự khai và lời trình bày của bị đơn ông Đào Thanh V trong quá trình giải quyết vụ án, được bổ sung tại phiên tòa thể hiện:

- Về hôn nhân: Ông và bà Trần Thị Kiều O chung sống vợ chồng với nhau năm 2002, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã An X, thành phố Cà M, tỉnh Cà Mau ngày 20/12/ 2002. Trong quá trình chung sống, ông và bà O có mâu thuẫn nhưng ông V cho là không lớn, ông vẫn còn thương vợ, thương con nên nay bà O xin ly hôn, ông V không đồng ý.

- Về con chung: Có 01 người tên Đào Văn G, sinh ngày 01/7/2004. Hin đang sống chung với ông. Nếu bà O cương quyết ly hôn thì ông tôn trọng ý kiến nguyện vọng của con, sống với ai thì người đó có trách nhiệm nuôi dưỡng, không đặt ra vấn đề cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Ông V xác định có phần đất tọa lạc tại ấp Tân Thuộc, xã An x, thành phố Cà Mau là do cha mẹ ông cho riêng ông, trước khi ông V kết hôn với bà O. Sau đó quá trình chung sống vợ chồng tích lũy tiền, cất căn nhà cấp 4 chiều ngang 4,7m; Chiều dài khoảng 16m. Đối với tài sản kiến trúc căn nhà ông và bà O sẽ tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đi với số vàng 1,4 lượng vàng 24k, theo ông V lời trình bày của bà O là đúng nhưng vào năm 2018 ông đã bán 04 chỉ vàng để xoay sở chi phí, sinh hoạt chung cho gia đình. Ngoài ra ông V còn trình bày thêm tài sản vợ chồng còn có 03 chỉ vàng 24k hiện bà O quản lý, số tiền bán heo 10.000.000đ và số tiền 29.000.000đ bà O hốt hụi của vợ chồng chủ hụi ông P, bà C. Nếu Tòa án chấp nhận cho bà O ly hôn với ông thì ông yêu cầu chia 1,3 lượng vàng và số tiền 39.000.000đ. Tại phiên hòa giải ông V có cam kết sẽ nộp đơn yêu cầu chia tài sản nhưng đến hôm nay ông vẫn không nộp đơn.

- Về nợ chung: Ông Vân xác định nợ Nguyễn Văn T chủ Cửa hàng vật liệu xây dựng số tiền 17.500.000đ là tiền mua vật tư khi cất nhà. Nếu Tòa án chấp nhận cho bà O ly hôn với ông thì ông yêu cầu số tiền nợ trên chia đôi.

Đi với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vụ án:

- Bà Tô Thị Kim C tại tòa hôm nay vắng mặt. Tại biên bản ghi ý kiến bà C trình bày, bà có làm chủ dây hụi 1.000.000đ khui ngày 25/7/2017AL gồm có 30 chân. Bà O có tham gia 01 chân hụi, đã đóng được 03 kỳ thì ngưng không đóng hụi. Sau đó bà O có yêu cầu xin rút khỏi dây hụi không tham gia nên bà đã trả lại số tiền cho bà O, ông V từ lâu. Hiện nay giữa bà và bà O, ông V không còn liên quan đến việc chơi hụi và bà xác định không có liên quan gì đến việc bà O, ông V ly hôn bà không tham gia phiên hòa giải và xét xử vụ án và yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt bà.

- Ông Nguyễn Văn T tại tòa vắng mặt. Tại biên bản ghi ý kiến của ông T ông xác định. Ông V, bà O có nợ ông số tiền 17.500.000đ là tiền mua vật tư để xây cất nhà. Số nợ này hiện nay ông chưa yêu cầu, khi nào ông có yêu cầu ông sẽ khởi kiện thành vụ án khác. Đối với việc ly hôn của ông V, bà O ông xin không tham gia không tham gia phiên hòa giải, xét xử vụ án và yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt ông.

* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau phát biểu: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và tại phiên tòa của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và các đương sự là đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng dân sự quy định. Về nội dung: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị căn cứ các Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân gia đình chấp nhận yêu cầu của Nguyên đơn cho chị Trần Thị Kiều O ly hôn với anh Đào Thanh V. Về con chung giao cháu Đào Văn G, sinh ngày 01/7/2004 cho ông Vân nuôi dưỡng. Về tài sản chấp nhận yêu cầu bà Trần Thị Kiều O số vàng của vợ chồng xác định là 1,4 lượng vàng 24k là tài sản chung của vợ chồng được chia đôi. Buộc ông Đào Thanh V hoàn lại cho bà Trần Thị Kiều O 07( Bảy) chỉ vàng 24K( trong số tài sản 1,4 lượng vàng 24K).

Về nợ chung của ông Nguyễn Thanh Tiền tách ra thành vụ án khác khi ông Tiền có yêu cầu thành vụ án dân sự khác

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Nội dung tranh chấp giữa bà Trần Thị Kiều O và ông Đào Thanh V được xác định là tranh chấp về ly hôn nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về hôn nhân: Bà O và ông V có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, nên mối quan hệ hôn nhân của ông, bà được pháp luật công nhận và bảo vệ, tại giấy cấp trích lục kết hôn ngày 29/5/2019 của UBND xã An x ghi tên chồng là Đào Thanh D quá trình giải quyết vụ án ông V xác định ông tên Đào Thanh V và tại tòa ông V xác định D với V là một người, ông bà cũng xác định là có đăng ký kết hôn tại xã An X thành phố Cà M. Lời trình bày của bà O tại phiên tòa nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng không hợp nhau, ông V thường hay dùng vũ lực hành hung bà, thậm chí gây thương tích. Vợ ,chồng bất đồng ý kiến, thường xuyên cự cãi do ghen tuông vô cớ. Nên hiện nay bà yêu cầu xin ly hôn với ông V.

Đi với ông V trong quá trình hòa giải ông xác định vẫn còn thương vợ, con và không đồng ý ly hôn. Tại Tòa ông V cũng thừa nhận vợ chồng đôi lúc có mâu thuẫn nhưng theo ông mâu thuẫn không lớn vợ chồng có cự cãi nhưng cũng không ảnh hưởng đến việc phải ly hôn.

Xét thấy, mặc dù ông V có yêu cầu hàn gắn nhưng bà O vẫn cương quyết xin ly hôn, bà cho là ông V hay đánh đập bà, việc mâu thuẩn của vợ chồng phát sinh từ năm 2014 đến nay và không thể nào hàn gắn cụ thể năm 2014, bà O cũng đã làm đơn xin ly hôn nhưng bà đã cho ông V cơ hội sửa chửa nhưng không có kết quả. Vì vậy cuộc hôn nhân kéo dài cũng không có hạnh phúc, gây rắc rối cho nhau, hơn nữa sống chung với ông V, bà thường hay lo sợ ông V hành hung, không an tâm khi sống chung với ông V. Hội đồng xét xử, xét thấy mâu thuẫn trong hôn nhân của ông, bà đã thật sự đã trầm trọng. Ông V cho là còn thương vợ, con nhưng ông không có biện pháp nào để duy trì hàn gắng cuộc hôn nhân, vì vậy không thể kéo dài đời sống chung của vợ chồng, tình cảm vợ chồng không còn thương yêu tin tưởng lẫn nhau nếu tiếp tục sống chung cũng không có hạnh phúc. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là phù hợp, cho bà O được ly hôn với ông V.

[3] Về con chung: Có 01 người tên Đào Văn G, sinh ngày 01/7/2004. Hiện đang sống chung với ông V. Khi ly hôn ông V, bà O điều tôn trọng ý kiến nguyên vọng của con, sống với ai thì người đó có trách nhiệm nuôi dưỡng, không đặt ra vấn đề cấp dưỡng nuôi con. Ý kiến nguyện vọng của cháu G đồng ý sống chung với ông V cho nên tiếp tục giao ông V nuôi dưỡng cháu G.

Về cấp dưỡng nuôi con không đặt ra yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Bà O vẫn có quyền đến thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở.

[4] Về tài sản chung: Có 01 kiến trúc căn nhà tọa lạc tại ấp Tân Thuộc, xã An X thành phố Cà M, nguồn gốc đất do cha, mẹ ruột của ông V cho trước khi kết hôn với bà O. Trong quá trình thụ lý vụ án, hòa giải và tại Tòa ông V bà O điều xác định không yêu cầu chia phần nhà và đất nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đi với bà O cho là ông V đang quản lý 1,4 lượng vàng 24K tài sản chung của vợ chồng bà yêu cầu chia đôi mỗi người 7 chỉ vàng 24K. Đối với ông V xác định là có 1,4 lượng vàng, nhưng vào năm 2018 ông đã bán 04 chỉ, để sử dụng chung vào việc sinh hoạt chi phí trong gia đình như vậy thực tế hiện nay ông V chỉ quản lý 01 lượng vàng 24K là số tài sản chung của vợ chồng. Song ông không chứng minh được việc bán vàng, việc bán 04 chỉ bà O hoàn toàn không hay biết nhưng bản thân ông thừa nhận vợ chồng có 1,4 lượng vàng 24K, do đó ông phải tự chịu. Cho nên chấp nhận lời trình bày của bà O số vàng được chia mỗi người 07 chỉ, hơn nửa hiện nay bà O cũng không đặt ra chia phần kiến trúc căn nhà. Ông V có trách hoàn lại cho bà O 07 chỉ vàng 24K. Thời điểm xét xử sơ thẩm giá vàng 24K, mỗi chỉ là 3.600.000đ là cơ sở tính án phí.

Ngoài ra ông V cho là khi bà O đi có mang theo 03 chỉ vàng 24K và số tiền 39.000.000đ trong đó tiền bán heo 10.000.000đ và tiền chơi hụi 29.000.000đ. Bà O xác định hoàn toàn không có 03 chỉ vàng và số tiền 39.000.000đ. Nhận thấy số vàng 03 chỉ 24K, bà O hoàn toàn không thừa nhận và không có chứng cứ nào thể hiện. Vì vậy không có cơ sở chấp nhận số vàng 03 chỉ bà O đang quản lý nên không có cơ sở để chia. Đối với khoản tiền 39.000.000đ việc chơi hụi và tiền bán heo. Tại tòa ông V cho là đóng được 16 kỳ khoảng 16.000.000đ. Tòa án có tiến hành xác minh thu thập chứng cứ chủ hụi là bà C thì bà C xác định, bà O có chơi hụi năm 2017AL. Bà O chỉ đóng được 03 kỳ thì ngưng. Sau đó không tham gia chơi hụi và phần hụi của bà Oanh đóng vào, bà C đã trả lại số tiền cho bà O từ lâu. Cho nên số tiền 29.000.000đ chơi hụi là không có trong thực tế. Đối với số tiền 10.000.000đ bán heo, bà O cho là mua heo con về nuôi nhưng đã bán từ 2018 khi heo còn nhỏ trước khi bà O đi, số tiền bán được chi phí vào việc sử dụng chung trong gia đình nên hoàn toàn không có khoản tiền mà ông V trình bày, cho nên lời trình bày của ông V là chưa có căn cứ thuyết phục, về phần 03 chỉ vàng và số tiền 39.000.000đ. Quá trình giải quyết vụ án ông V nêu ra nhưng ông không có đơn yêu cầu.

Về nợ chung: Bà O khai không nợ ai và không ai nợ vợ chồng. Ông V khai nợ tiền mua vật liệu xây dựng của ông Tiền số tiền 17.500.000đ. Tại tòa ông V cho là nếu bà O không chia kiến trúc căn nhà, ông sẽ tự thanh toán phần nợ này. Nhận thấy hiện nay, ông T không yêu giải quyết phần nợ nên tách ra khi nào ông T có yêu cầu được giải quyết thành vụ án dân sự khác. Ông T không có yêu cầu Tòa án hòa giải và yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt ông.

Về tư cách tham gia tố tụng bà C ông T tại tòa hôm nay vắng mặt không có yêu cầu Tòa án hòa giải, yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt nên việc xét xử vắng mặt người có quyền lợi nghiã vụ liên quan không bị ảnh hưởng quyền lợi.

[5] Về án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm bà O phải chịu. Án phí dân sự, sơ thẩm có giá ngạch Ông V, bà O phải chịu theo qui định của pháp luật .

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Căn cứ các Điều 28, 35, 147, 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

-Về hôn nhân: Cho bà Trần Thị Kiều O được ly hôn với ông Đào Thanh V ( Đào Thanh D) -Về con chung: Tuyên xử giao cháu Đào Văn G, sinh ngày 01/7/2004 cho ông Đào Thanh V tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Không đặt ra vấn đề cấp dưỡng nuôi con.

Bà Trần Thị Kiều O có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được cản trở.

Về tài sản chung: 01 căn nhà và đất tại ấpTân Thuộc, xã An X thành phố Cà M loại nhà cấp 4 ông bà không yêu cầu nên không xem xét.

Chấp nhận yêu cầu bà Trần Thị Kiều O số vàng của vợ chồng xác định là 1,4 lượng vàng 24k là tài sản chung của vợ chồng được chia đôi. Buộc ông Đào Thanh V hoàn lại cho bà Trần Thị Kiều O 07( Bảy) chỉ vàng 24K( trong số tài sản 1,4 lượng vàng 24K).

Về nợ chung của ông Nguyễn Thanh T tách ra thành vụ án khác khi ông T có yêu cầu thành vụ án dân sự khác 2. Án phí sơ thẩm về Hôn nhân và gia đình là 300.000 đồng, bà O phải chịu. Bà O đã nộp tạm ứng án phí số tiền 300.000 đồng theo lai số 0001812 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cà M ngày 17/12/2018, được sung quỹ nhà nước. Án phí dân sự sơ thẩm chia tài sản có giá ngạch ông V phải nộp 1.260.000đ, bà O phải nộp 1.260.000đ (Chưa nộp).

Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bà Tô Thị Kim C, ông Nguyễn Thanh T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

221
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 102/2019/HNGĐ-ST ngày 30/05/2019 về ly hôn

Số hiệu:102/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về