TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ D, TỈNH B
BẢN ÁN 102/2019/HNGĐ-ST NGÀY 12/09/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON
Trong ngày 12 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thị xã D, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 593/2019/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 6 năm 2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 132/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 8 năm 2019, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Chúc L, sinh năm 1983; thường trú: Số 26/9 khu B, khu phố T2, phường T, thị xã D, tỉnh B; Có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt
- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn C; sinh năm: 1982; Số 26/9 khu B, khu phố T2, phường T, thị xã D, tỉnh B. Có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.
Người làm chứng: Bà Trần Thị B, sinh năm 1961. Thường trú: Số 14/A, khu phố Bình Thung 1, phường B, Thị xã D, tỉnh B. Có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Tại đơn khởi kiện ngày 10/6/2018 và lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Chúc L trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Chúc L và anh Nguyễn Văn C sau thời gian tìm hiểu nhau khoảng 01 năm thì tự nguyện tiến tới hôn nhân, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường B, Thị xã D, tỉnh B vào ngày 20/8/2003 theo Giấy chứng nhận kết hôn số 83/KH, quyển số 01/2003. Sau kết hôn, chị Nguyễn Thị Chúc L và anh Nguyễn Văn C sinh sống tại 26/9 khu B, khu phố T2, phường T, thị xã D, tỉnh B, cuộc sống gia đình hạnh phúc đến năm 2014 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn trầm trọng, nguyên nhân là do vợ chồng tính tình không hợp, thường xuyên tranh cãi, đánh nhau, không quan tâm, chăm sóc nhau, vợ chồng có trao đổi với nhau nhưng tình cảm không được cải thiện, vợ chồng sống ly thân từ tháng 5/2019. Nay chị Nguyễn Thị Chúc L xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được yêu cầu đựơc ly hôn với anh Nguyễn Văn C.
Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng có 03 con chung tên Nguyễn Ngọc M, sinh ngày: 17/11/2006; Nguyễn Minh H, sinh ngày 22/10/2014; Nguyễn Thanh x, sinh ngày: 22/10/2014. Chị Nguyễn Thị Chúc L có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng 03 con chung và không yêu cầu anh Nguyễn Văn C cấp dưỡng nuôi con chung.
Từ khi vợ chồng sống ly thân, con chung ở với chị Nguyễn Thị Chúc L, do chị Ly trực tiếp chăm sóc. Hiện nay chị Nguyễn Thị Chúc L là lao động tự do thu nhập khoảng 6.000.000 đồng/1 tháng.
Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Nghĩa vụ chung về tài sản: Không có, không yêu cầu Toà án giải quyết.
- Về phía bị đơn anh Nguyễn Văn C vắng trong toàn bộ quá trình tố tụng nhưng tại văn bản ngày 01/8/2019 anh Nguyễn Văn C trình bày:
Anh Nguyễn Văn C và chị Nguyễn Thị Chúc L kết hôn đã 16 năm, có 03 con chung, chị Nguyễn Thị Chúc L muốn ly hôn và đã bỏ về quê, anh Nguyễn Văn C không đồng ý ly hôn.
Vợ chồng không có tài sản chung, không có nợ chung.
- Người làm chứng bà Trần Thị B khai:
Bà Trần Thị B là mẹ của anh Nuyễn Văn C. Trong cuộc sống hôn nhân của chị Nguyễn Thị Chúc L và anh Nguyễn Văn C có nhiều mâu thuẫn, thường xuyên tranh cãi, đến tháng 4/2019 chị Ly cùng 03 cháu là Nguyễn Ngọc M, sinh ngày: 17/11/2006; Nguyễn Minh H, sinh ngày 22/10/2014; Nguyễn Thanh x, sinh ngày: 22/10/2014 đã về quê Vĩnh Long sinh sống, Nguyễn Thị Chúc L và Nguyễn Văn C sống ly thân từ đó cho đến nay. Đối với những mâu tuẫn vợ chồng của anh C, chị L thì gia đình bà B và gia đình chị L đều biết.
Nay chị Nguyễn Thị Chúc L có đơn xin ly hôn, bà Trần Thị B thấy rằng hôn nhân của chị L và anh C không thể kéo dài được nên thống nhất về việc ly hôn.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thị xã D, tỉnh B tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến tại phiên tòa, Tòa án và nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật về tố tụng dân sự. Nguyên đơn, bị đơn được triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa, tuy nhiên có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt, căn cứ Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn là đúng quy định. Về nội dung: Xét thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, ý kiến của vị đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về việc vắng mặt của các đương sự: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Chúc L và bị đơn anh Nguyễn Văn C có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt nên căn cứ theo Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt chị Nguyễn Thị Chúc L và anh Nguyễn Văn C.
[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Chúc L và anh Nguyễn Văn C là vợ chồng, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường B, Thị xã D, tỉnh B vào ngày 20/8/2003 theo Giấy chứng nhận kết hôn số 83/KH, quyển số 01/2003 nên quan hệ hôn nhân của chị Nguyễn Thị Chúc L và anh Nguyễn Văn C là hợp pháp. Xét yêu cầu về việc xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Chúc L thấy rằng: Chị Nguyễn Thị Chúc L khai trong cuộc sống vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn nguyên nhân do vợ chồng tính tình không hợp, thường xuyên tranh cãi, đánh nhau, không quan tâm, chăm sóc nhau, vợ chồng có trao đổi với nhau nhưng tình cảm không được cải thiện, vợ chồng sống ly thân từ tháng 5/2019. Anh Nguyễn Văn C không đồng ý ly hôn nhưng thừa nhận chị Nguyễn Thị Chúc L đã bỏ về quê từ tháng 5/2019. Hội đồng xét xử nhận thấy mặc dù anh Nguyễn Văn C không đồng ý ly hôn nhưng anh Nguyễn Văn C không đưa ra được phương án để vợ chồng hàn gắn tình cảm; sau khi Tòa án thụ lý vụ án đã triệu tập anh Nguyễn Văn C đến tham gia phiên hòa giải để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng anh Nguyễn Văn C không đến Tòa án, điều này chứng tỏ tình cảm vợ chồng đã thực sự không còn và không muốn hàn gắn, nếu tiếp tục duy trì quan hệ hôn nhân này cũng không đạt được mục đích. Đồng thời, bà Trần Thị B là mẹ của anh Nguyễn Văn C xác nhận, trong cuộc sống vợ chồng của anh Nguyễn Văn C và chị Nguyễn Thị Chúc L có nhiều mâu thuẫn và hai bên gia đình đã biết về những mâu thuẫn này. Vì vậy, chị Nguyễn Thị Chúc L yêu cầu ly hôn là phù hợp với quy định của Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình nên có căn cứ chấp nhận.
[4] Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng có Nguyễn Ngọc M, sinh ngày: 17/11/2006; Nguyễn Minh H, sinh ngày 22/10/2014; Nguyễn Thanh x, sinh ngày: 22/10/2014, chị Nguyễn Thị Chúc L có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung. Tuy nhiên, việc giao con cho ai trực tiếp nuôi dưỡng cần phải xem xét về mọi mặt, quyền lợi của con chưa thành niên. Xét thấy, trong quá trình tố tụng anh Nguyễn Văn C không có ý kiến về vấn đề con chung, tại bản tự khai ngày 19/8/2019 cháu Nguyễn Ngọc Mai có nguyện vọng ở với mẹ là chị Nguyễn Thị Chúc L và từ khi vợ chồng sống ly thân cháu Nguyễn Ngọc Mai; Nguyễn Minh Hùng; Nguyễn Thanh Xuân do chị Nguyễn Thị Chúc L trực tiếp nuôi dưỡng, điều này được bà Trần Thị B xác nhận. Vì vậy, căn cứ vào Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, có cơ sở chấp nhận tiếp tục giao cháu Nguyễn Ngọc M, sinh ngày: 17/11/2006; Nguyễn Minh H, sinh ngày 22/10/2014; Nguyễn Thanh x, sinh ngày: 22/10/2014 cho chị Nguyễn Thị Chúc L trực tiếp nuôi dưỡng.
[5] Về cấp dưỡng nuôi con: Ghi nhận sự tự nguyện của chị Nguyễn Thị Chúc L về việc không yêu cầu anh Nguyễn Văn C cấp dưỡng nuôi con chung.
[6]Về tài sản chung, nghĩa vụ chung về tài sản: Đương sự không yêu cầu Toà án giải quyết.
[7] Án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Chúc L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn. Anh Nguyễn Văn C không phải chịu.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 56, Điều 81, 82, 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình;
Căn cứ khoản 4 Điều 147, các Điều 227, 228, 238, 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Chúc L được ly hôn với anh Nguyễn Văn C (Giấy chứng nhận kết hôn số 83/KH, quyển số 01/2003 do Ủy ban nhân dân phường B, Thị xã D, tỉnh B cấp ngày 20/8/2003) 2. Về con chung: Tiếp tục giao cháu Nguyễn Ngọc M, sinh ngày:
17/11/2006; Nguyễn Minh H, sinh ngày 22/10/2014; Nguyễn Thanh x, sinh ngày: 22/10/2014 cho chị Nguyễn Thị Chúc L trực tiếp nuôi dưỡng.
Sau khi ly hôn, chị Nguyễn Thị Chúc L và anh Nguyễn Văn C đều có quyền chăm sóc, thăm nom, giáo dục con, không ai có quyền cản trở anh, chị thực hiện quyền này. Trường hợp anh Nguyễn Văn C lạm dụng việc đi lại, thăm nom con gây ảnh hưởng xấu đến việc chị Nguyễn Thị Chúc L nuôi con thì chị Nguyễn Thị Chúc L có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con theo quy định của pháp luật. Vì lợi ích về mọi mặt của con khi một hoặc cả hai bên đương sự có yêu cầu, Tòa án sẽ quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng.
3. Về cấp dưỡng nuôi con: Ghi nhận sự tự nguyện của chị Nguyễn Thị Chúc L về việc không yêu cầu anh Nguyễn Văn C cấp dưỡng nuôi con chung.
4. Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Đương sự không yêu cầu giải quyết.
5. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Chúc L phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn được khấu trừ hết vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số 0028788 ngày 25/6/2019 của Chi cục Thi hành án dân Thị xã D, tỉnh B. Anh Nguyễn Văn C không phải nộp.
6. Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết./.
Bản án 102/2019/HNGĐ-ST ngày 12/09/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con
Số hiệu: | 102/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 12/09/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về