Bản án 10/2021/HS-ST ngày 29/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 10/2021/HS-ST NGÀY 29/01/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 01 năm 2021, tại phòng xử án Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 05/2021/TLST-HS ngày 12 tháng 01 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2021/QĐXXST- HS ngày 13 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo:

Trần Văn C (Tên gọi khác: T); sinh năm 1990 tại Sóc Trăng; Đăng ký thường trú: Ấp P, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 4/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Trần Văn N, sinh năm 1969 và bà: Lâm Thị P, sinh năm 1971; Vợ, con: Chưa có; Tiền án: 01 lần: ngày 05 tháng 11 năm 2018 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản đến ngày 03 tháng 4 năm 2019, bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù chưa được xóa án tích. Tiền sự: Không có; Về nhân thân: vào ngày 11 tháng 8 năm 2009 bị Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng xử phạt 01 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” đã xóa án tích. Bị cáo đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quyết định số 235/QĐ-TA ngày 25/9/2020 C Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng từ ngày 25 tháng 8 năm 2020 cho đến nay (có mặt).

- Bị hại: Nguyễn Văn I, sinh năm 1968; Đăng ký thường trú: Ấp L, xã H, huyện A, tỉnh Hậu Giang. (vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Tạ K, sinh năm 1985; Đăng ký thường trú: Số 201/1, đường X, khóm 6, phường 7, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 15 giờ, ngày 22 tháng 8 năm 2020, C đang ở khu vực đường Lý Thường Kiệt, phường 1, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng thì gặp một người bạn tên Dảnh (chưa rõ họ tên và địa chỉ) đang điều khiển xe mô tô (không rõ biển số) nên C nhờ Dảnh chở C đi đến nhà bà Nguyễn Thị Thật tại nhà không số hẻm 389 đường Quốc lộ 1A, khóm 5, phường 2, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng để uống nước thì Dảnh đồng ý chở. Khi đến thì C xuống xe còn Dảnh thì điều khiển xe đi về, C đi vào bên trong nhà thì thấy nhà bà Thật khóa cửa không có ở nhà nên C đi lại cái võng trước nhà C bà Thật ngồi nghỉ, được một lúc C quan sát xung quanh thì thấy chiếc xe mô tô nhãn hiệu FEROLI, biển số 95RA-0067 C ông Nguyễn Văn I đang dựng ở gần đó không có người trông giữ nên C nảy sinh ý định chiếm đoạt. C đi lại dùng tay bức đứt dây điện trong xe rồi leo lên xe đạp nổ máy xe điều khiển chạy tẩu thoát. Sau đó C điều khiển xe đi đến tiệm sửa xe của ông Dương Văn Đô số 316 đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, khóm 4, phường 7, thành phố Sóc Trăng C hỏi bán chiếc xe vừa chiếm đoạt cho Đô nhưng Đô không đồng ý mua. Sau đó Đô điện thoại cho Tạ K hỏi về việc C bán xe thì K đồng ý mua. Sau đó K đi lại tiệm sửa xe C Đô mua chiếc xe do C chiếm đoạt với giá 900.000 đồng, số tiền có được C đã mua ma túy để sử dụng hết.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 116/KL.ĐGTS, ngày 12 tháng 9 năm 2020 của Hội đồng định giá tài sản thành phố Sóc Trăng kết luận: 01 (một) xe gắn máy biển số 95RA-0067, nhãn hiệu FERROLI, số máy P39FMB010335, số khung B2UM7XB10385, đã qua sử dụng, có giá 3.250.000 đồng.

Tại bản Cáo trạng số 10/CT-VKS-TPST ngày 11/01/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng đã truy tố bị cáo Trần Văn C về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, thừa nhận Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng tội;

Tại phiên toà, Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Trần Văn C về tội “Trộm cắp tài sản”; Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Bị cáo Trần Văn C phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại được tài sản và không yêu cầu bị cáo bồi thường, nên không đặt ra xem xét.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra và truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định C Bộ luật Tố tụng hình sự. Ngoài ra, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, không có người nào có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa bị hại Nguyễn Văn I và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vụ án: Tạ K vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt. Xét thấy việc vắng mặt những người này đã có lời khai làm rõ các tình tiết vụ án, không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Căn cứ vào Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt những người này.

[3]. Tại phiên tòa bị cáo Trần Văn C khai nhận: Vào khoảng 15 giờ, ngày 22 tháng 8 năm 2020, bị cáo đi ngang nhà không số trong hẻm 389 đường Quốc lộ 1A, khóm 5, phường 2, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng, bị cáo quan sát không thấy ai trong coi, lén lút lấy chiếc xe mô tô nhãn hiệu FEROLI, biển số 95RA-0067 của ông Nguyễn Văn I. Qua định giá tài sản mà bị cáo chiếm đoạt có giá trị 3.250.000 đồng. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, các chứng cứ và tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Nên Hội đồng xét xử đủ cơ sở xác định: Bị cáo lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị 3.250.000 đồng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác. Do đó, Hội đồng xét xử kết luận bị cáo Trần Văn C phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 C Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Như vậy, Cáo trạng Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng truy tố đối với hành vi C bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4]. Xét về tình tiết tăng nặng: Bị cáo từng bị kết án vào ngày 05 tháng 11 năm 2018 bị Tòa án nhân dân huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng, xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” đến ngày 03 tháng 4 năm 2019 thì chấp hành xong hình phạt tù, chưa được xóa án tích, đến ngày 20/8/2020 phạm tội do cố ý nên phạm tội thuộc tình tiết tăng nặng tái phạm được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

[5]. Xét về nhân thân: vào ngày 11 tháng 8 năm 2009 bị Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng xử phạt 01 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” đã xóa án tích. Bị cáo đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quyết định số 235/QĐ-TA ngày 25/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng từ ngày 25 tháng 8 năm 2020 cho đến nay.

[6]. Xét các tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo; Bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 C Bộ luật hình sự.

[7]. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản không yêu cầu bị cáo bồi thường nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

[8]. Đối với ông Tạ K mua chiếc xe bị cáo chiếm đoạt với giá 900.000 đồng, ông không biết nguồn gốc xe do bị cáo phạm tội mà có nên không có cơ sở xem xét trách nhiệm hình sự; Về trách nhiệm dân sự ông K tự nguyện không yêu cầu bị cáo bồi thường nên Hội đồng xét xử xem xét không giải quyết.

[9]. Xét lời đề nghị của kiểm sát viên về việc áp dụng pháp luật là có căn cứ chấp nhận. Về hình phạt cần xử phạt bị cáo ở mức khởi điểm như Kiểm sát viên đề nghị là phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi và hậu quả mà bị cáo gây ra, đủ sức răn đe, giáo dục phòng ngừa tội phạm chung.

[10].Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 C Ủy ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 173; điểm h khoản 1, Điều 52; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố : Bị cáo Trần Văn C phạm tội: “Trộm cắp tài sản” 1. Xử phạt bị cáo Trần Văn C 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo thi hành án.

2. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường, nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

3. Án phí hình sự sơ thẩm buộc bị cáo phải nộp là 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng);

Báo cho bị cáo được kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, riêng bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được cấp, tống đạt hợp lệ để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2021/HS-ST ngày 29/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:10/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sóc Trăng - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về