Bản án 10/2021/HSST ngày 12/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy 

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ UÔNG BÍ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 10/2021/HSST NGÀY 12/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY  

Ngày 12 tháng 3 năm 2021, tại phòng xử án Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 08/2021/TLST-HS ngày 04 tháng 02 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 11/2021/QĐXXST- HS ngày 26 tháng 02 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Duy H, tên gọi khác: không có; sinh ngày 26/12/1992, tại U B, Q.N. Nơi ĐKHKTT: Tổ 1, khu H 1, phường P, thành phố U, tỉnh Q; chỗ ở: Tổ 2, khu B, phường P, thành phố U, tỉnh Q; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Đ và bà Đinh Thị T; vợ: Bùi Thị H, sinh năm 1993; con: có 02 con, lớn sinh năm 2016, nhỏ sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt quả tang ngày 14/11/2020, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố U, có mặt tại phiên tòa.

*Ni chứng kiến: 1. Ông Lưu Văn T, sinh năm: 1955.

Địa chỉ: Tổ 2, khu H, phường P, thành phố U, tỉnh Q, vắng mặt.

2. Anh Nguyễn Cao T, sinh năm: 1987; địa chỉ: Tổ 3, khu H, phường P, thành phố U, tỉnh Q, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 09 giờ 40 phút, ngày 14/11/2020, tổ công tác của Công an phường P, thành phố U đang làm nhiệm vụ tại khu vực chợ Cầu thuộc tổ 1, khu B 1, phường P, thành phố U, tỉnh Q, phát hiện bắt quả tang Nguyễn Duy H đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng. Thu giữ của H 01 túi nilon màu trắng, kích thước khoảng (1,5 x 02)cm, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng. H khai đây là ma túy mua của một người đàn ông không quen biết, mang về, mục đích để sử dụng. Ngoài ra Công an còn tạm giữ của H 01 xe mô tô hiệu Yamaha Sirius, biển kiểm soát 14Y1- 045… đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu trắng gắn sim số 0977.987.296 và số tiền 1.550.000 đồng.

Tại bản kết luận giám định số 1571/KLGĐ ngày 17/11/2020, của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Q kết luận: Vật chứng gửi giám định (chất tinh thể màu trắng thu của H) là ma túy, loại Methamphetamine; khối lượng 0,247 gam.

Tại Cơ quan điều tra, cũng như tại phiên tòa Nguyễn Duy H khai nhận: Khoảng 08 giờ 30 phút, ngày 14/11/2020, H đang ở nhà thì nảy sinh ý định sử dụng ma túy đá. H đi đến nhà anh Vũ Văn H1 ở cùng khu với H để xin ma túy đá, nhưng H1 không có. H đưa cho H1 200.000 đồng nhờ H1 mua hộ ma túy, H1 đồng ý. Khoảng 09 giờ cùng ngày H1 gọi điện thoại bảo H sẽ có người liên lạc đưa ma túy cho H. Sau đó H nhận được điện thoại của một người người đàn ông không quen hẹn H đến khu vực chợ Cầu, phường P để lấy ma túy. H điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha Sirius, biển kiểm soát 14Y1-045… đến chỗ hẹn lấy túi ma túy rồi đi về nhà. Khi vừa đi được khoảng 50m, thì bị Công an kiểm tra, phát hiện bắt quả tang thu giữ vật chứng.

Tại Cáo trạng số: 13/CT- VKSUB ngày 01/02/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố U truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố U tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo theo bản Cáo trạng. Sau khi xem xét đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, đại diện Viện Kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo từ 12 đến 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 14/11/2020.

- Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người không có nghề nghiệp, không có tài sản riêng nên đề nghị HĐXX không áp dụng.

- Về xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong hoàn lại sau giám định số 1571/KLGĐ của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Q, còn nguyên vẹn và 01 sim điện thoại số 0977.987.296; tịch thu, nộp Ngân sách Nhà nước 01 điện thoại Samsung màu trắng; trả lại bị cáo 1.550.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, kiểm sát viên thu thập và hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về các tài liệu, chứng cứ cũng như hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập và hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa là phù hợp với nhau, với lời khai của những người chứng kiến, với Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an phường P lập hồi 09 giờ 50 phút ngày 14/11/2020, với vật chứng thu giữ của bị cáo, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 09 giờ 40 phút, ngày 14/11/2020, tại tổ 1, khu B 1, phường P, thành phố U, tỉnh Q, Nguyễn Duy H là người có đủ năng lực, trách nhiệm hình sự có hành vi tàng trữ trái phép 0,247 gam ma túy, loại Methamphetamine, mục đích để sử dụng thì bị bắt quả tang, thu giữ vật chứng. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Viện Kiểm sát nhân dân thành phố U truy tố và kết luận về hành vi phạm tội đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Về hình phạt:

[3.1] Hình phạt chính:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác, gây mất trật tự trị an xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến cộng đồng dân cư, nên cần phải xử lý nghiêm.

* Tình tiết tăng nặng: Không có.

*Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Từ những đánh giá, phân tích nêu trên. Căn cứ vào nhân thân, hành vi, tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo cũng như những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HĐXX xét thấy phải có mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, bắt bị cáo phải cách ly khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung tội phạm.

[3.2] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng. Xét bị cáo không có tài sản riêng, mua ma túy để sử dụng không nhằm mục đích bán kiếm lời nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng và tài sản tạm giữ: Số ma túy Methamphetamine, thu giữ của bị cáo là vật Nhà nước cấm tàng trữ, chiếc sim điện thoại bị cáo dùng để liên lạc mua ma túy là công cụ phạm tội và không còn giá trị sử dụng, nên tịch thu tiêu hủy; chiếc điện thoại di động hiệu Samsung là vật bị cáo dùng vào việc phạm tội, nên tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước; số tiền 1.550.000 đồng là tiền của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội, nên trả lại bị cáo.

Đối với 01 xe mô tô hiệu Yamaha Sirius, biển kiểm soát 14Y1- 045…, Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp ông Nguyễn Văn Đ (bố đẻ H), nên không đề cập.

[5] Những tình tiết khác trong vụ án: Đối với anh Vũ Văn H trong quá trình điều tra, không thừa nhận mua ma túy hộ H, nên không đủ căn cứ xử lý.

Đối với người đàn ông bán ma túy cho H, không có lai lịch, địa chỉ cụ thể, nên không đề cập xử lý.

[6] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố

Bị cáo Nguyễn Duy H phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Căn cứ vào: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Nguyễn Duy H 12 (Mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 14/11/2020.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong hoàn lại sau giám định số 1571/KLGĐ còn nguyên vẹn của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Q và 01 sim điện thoại số 0977.987.296; tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước 01 điện thoại Samsung màu trắng; trả lại bị cáo 1.550.000 đồng, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

(Số vật chứng, tài sản trên có tình trạng và đặc điểm như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 04 tháng 02 năm 2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố U và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố U, tỉnh Q).

3. Về án phí Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí,lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Duy H phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm, nộp ngân sách Nhà nước.

4. Về quyề n kháng cáo: Căn cứ vào khoản 1 Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

159
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2021/HSST ngày 12/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy 

Số hiệu:10/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Uông Bí - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về