Bản án 10/2021/HSST ngày 11/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ Q, TỈNH Q

BẢN ÁN 10/2021/HSST NGÀY 11/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 03 năm 2021, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thị xã Q, tỉnh Q mở phiên tòa xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 11/2021/HSST ngày 29 tháng 01 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 13 /2021/QĐXXST ngày 26 tháng 02 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: VŨ ĐỨC TH (không có tên gọi khác); Sinh ngày 11 tháng 10 năm 1973. Tại Q, Q; Nơi cư trú: Khu 2, phường Q, thị xã Q, tỉnh Q; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hoá: 6/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Vũ Văn Ph, sinh năm 1935 (đã chết); Con bà Mai Thị M, sinh năm 1937; Có vợ là Nguyễn Thị H (đã ly hôn); Có 01 con sinh năm 1994;

Tiền án: Ngày 11/8/ 2004 bị Tòa án nhân dân tỉnh Q xử phạt 20 năm tù về tội “Giết người” và 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tổng hợp hình phạt chung là 21 năm tù. Ngày 19/01/2017, Th chấp hành xong hình phạt tù.

Tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 19/12/2020, hiện tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Q. Có mặt tại phiên tòa.

* Người chứng kiến:

1. Anh Đỗ Văn A, sinh năm 1987.

Nơi cư trú: Thôn 3, xã T, thị xã Q, tỉnh Q. Vắng mặt.

2. Anh Đỗ Văn Ng, sinh năm 1991.

Nơi cư trú: Thôn 1, xã T, thị xã Q - Q. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 16 giờ 00 phút ngày 19/12/2020, tại khu 2, phường Q, thị xã Q, tỉnh Q. Công an thị xã Q phát hiện bắt quả tang Vũ Đức Th có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ trong túi áo khoác phía trong, bên trái Th đang mặc có 20 (hai mươi) đoạn ống nhựa các màu, được hàn kín hai đầu, bên trong mỗi đoạn ống nhựa đều chứa chất bột màu trắng, dạng cục. Cùng ngày, Công an tiến hành khám xét nơi ở của Vũ Đức Th đã thu giữ dưới gầm giường phòng ngủ của Vũ Đức Th 01 (một) hộp gỗ màu nâu, hình chữ nhật, bên trong có 01 (một) túi nilon màu trắng được hàn kín ba đầu, một đầu có khóa kẹp, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng, dạng cục và 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá.

Tại Cơ quan điều tra, Th khai nhận: Bản thân Th sử dụng trái phép chất ma túy từ năm 2019 đến nay, khoảng 10 giờ ngày 19/12/2020, Th đến thành phố H mua ma túy của một người đàn ông không rõ tên tuổi, địa chỉ với số tiền 700.000 đồng được một túi nilon và 20 đoạn ống nhựa, bên trong đều chứa ma túy. Sau đó, Th cất túi ma túy vào hộp gỗ hình chữ nhật, để dưới gầm giường phòng ngủ, còn hai mươi đoạn ống nhựa chứa ma túy Th cho vào túi áo mang theo để tìm chỗ sử dụng thì bị Công an phát hiện, bắt quả tang, khám xét nơi ở và thu giữ số vật chứng như trên.

Tại bản kết luận giám định số 97/KLGĐ ngày 25/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Q, kết luận: Chất tinh thể màu trắng có trong 20 đoạn ống nhựa ghi thu giữ của Vũ Đức Th gửi giám định là ma túy, loại Heroine, tổng khối lượng là 0,278 gam (không phẩy hai bảy tám gam).

Tại bản kết luận giám định số 98/KLGĐ ngày 25/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Q, kết luận: Chất tinh thể màu trắng 01 túi nilon ghi thu của Vũ Đức Th giám định là ma túy, loại Methamphetamine, tổng khối lượng là 0,621 gam (không phẩy sáu hai một gam).

(Heroine là chất ma túy có số thứ tự 09 thuộc danh mục 1 Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ quy định danh mục các chất ma túy và tiền chất) và (Methamphetamine là chất ma túy có số thứ tự 323 thuộc danh mục 1 Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ quy định danh mục các chất ma túy và tiền chất).

Quá trình điều tra bị cáo Vũ Đức Th đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với các chứng cứ, tài liệu mà Cơ quan điều tra đã thu thập được.

Bản cáo trạng số 15/CT-VKSQY, ngày 29 tháng 01 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Q, tỉnh Q truy tố bị cáo Vũ Đức Th về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự ( thuộc trường hợp quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự).

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Q tham gia phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm luận tội như cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố Vũ Đức Th phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Vũ Đức Th từ 21 (hai mươi mốt) tháng đến 24 (hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 19/12/2020.

Về vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- 01 (một) phong bì niêm phong số 98/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Q, bên trong có 0,57 gam chất ma túy loại Methamphetamine là chất Nhà nước cấm lưu hành nên đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy.

- 01 (một) Hộp gỗ màu nâu, hình chữ nhật, có tay cầm trên phần nắp hộp; 01 (một) chai nhựa màu trắng, nhãn dán màu xanh, nắp chai được đục 02 lỗ, trong đó một lỗ được gắn 01 ống Th tinh được tạo hình dài khoản 10 cm, lỗ còn lại gắn ống hút nhựa màu tìm - trắng, dài khoảng 40cm đều không còn giá trị sử dụng nên đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy.

Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo nghề nghiệp và thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Tại phần tranh luận, bị cáo Vũ Đức Th không tranh luận gì với nội dung bản luận tội và thừa nhận việc truy tố đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, không bị oan sai. Bị cáo xin được hưởng mức án thấp nhất để sớm được trở về với gia đình và xã hội.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Q, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Q, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng quy định của pháp luật.

[2] Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại giai đoạn điều tra, với lời khai của những người chứng kiến anh Đỗ Văn A và anh Đỗ Văn Ng, với vật chứng bị thu giữ, biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an thị xã Q lập hồi 16 giờ 00 phút ngày 19/12/2020, biên bản khám xét lập hồi 10 giờ 00 phút ngày 19/12/2020, biên bản niêm phong vật chứng lập hồi 18 giờ 45 phút ngày 19/12/2020, kết luận giám định số 97 và 98/KLGĐ ngày 25/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Q cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra và công bố công khai tại phiên toà. Hội đồng xét xử đủ cơ sở khẳng định: Ngày 19/12/2020, trên khu 2, phường Q, thị xã Q, tỉnh Q, Vũ Đức Th đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy gồm: 0,278 gam (không phẩy hai bảy tám gam) Heroine và 0,621 (không phẩy sáu hai một gam) Methamphetamine để sử dụng cho bản thân thì bị Công an thị xã Q bắt quả tang và thu giữ vật chứng.

[3] Từ những chứng cứ nêu trên có đủ cơ sở kết luận hành vi của Vũ Đức Th đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự, như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Q đã quy kết đối với bị cáo là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

...,i)Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm b đến điểm h khoản này.” Bị cáo Vũ Đức Th là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc tàng trữ ma túy là trái pháp luật. Nhưng vì thỏa mãn cơn nghiện của bản thân nên bị cáo đã bất chấp pháp luật. Bản thân bị cáo đã có tiền án chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục phạm tội, thể hiện bị cáo coi thường pháp luật. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quy định của pháp luật về kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy, hành vi của bị cáo cũng là nguồn gốc phát sinh các tệ nạn xã hội, gây mất an ninh trật tự xã hội, tiếp tay cho các đối tượng mua bán trái phép chất ma túy và là nguyên nhân gia tăng các loại tội phạm khác. Do đó, cần phải có một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để cải tạo bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội. Tuy nhiên, cũng cần phải xem xét về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Nên, cần thiết cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

- Về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nên cần phải áp dụng tình tiết tăng nặng quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo nghề nghiệp và thu nhập không ổn định. Nên Hội đồng xét xử miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng:

Về vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- 01 (một) phong bì niêm phong số 98/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Q, bên trong có 0,57 gam chất ma túy loại Methamphetamine là chất Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

- 01 (một) Hộp gỗ màu nâu, hình chữ nhật, có tay cầm trên phần nắp hộp; 01 (một) chai nhựa màu trắng, nhãn dán màu xanh, nắp chai được đục 02 lỗ, trong đó một lỗ được gắn 01 ống Th tinh được tạo hình dài khoản 10 cm, lỗ còn lại gắn ống hút nhựa màu tìm - trắng, dài khoảng 40cm đều không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

[7] Liên quan trong vụ án có đối tượng đã bán ma túy cho Vũ Đức Th. Quá trình điều tra không xác định được lai lịch địa chỉ nên không đề cập xử lý.

[8] Về án phí:

Buộc bị cáo Vũ Đức Th phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 331; khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về hình phạt: Tuyên bố bị cáo Vũ Đức Th phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Căn cứ: Điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Vũ Đức Th 24 (hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 19/12/2020.

2. Về vật chứng:

Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì niêm phong số 98/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Q, bên trong có 0,57 gam chất ma túy loại Methamphetamine; 01 (một) Hộp gỗ màu nâu, hình chữ nhật, có tay cầm trên phần nắp hộp và 01 (một) chai nhựa màu trắng, nhãn dán màu xanh, nắp chai được đục 02 lỗ, trong đó một lỗ được gắn 01 ống Th tinh được tạo hình dài khoản 10 cm, lỗ còn lại gắn ống hút nhựa màu tìm - trắng, dài khoảng 40cm.

(Tình trạng các vật chứng trên thể hiện trong Biên bản giao nhận vật chứng lập vào hồi 15 giờ 00 phút, ngày 01/02/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã Q).

3. Về án phí:

Căn cứ vào khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:

Buộc bị cáo Vũ Đức Th phải nộp 200.000 đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo:

Căn cứ Điều 331; khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

157
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2021/HSST ngày 11/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:10/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Quảng Trị - Quảng Trị
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về