Bản án 10/2021/HNGĐ-ST ngày 20/09/2021 về ly hôn, tranh chấp con chung

A ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ TĨNH – TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 10/2021/HNGĐ-ST NGÀY 20/09/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP CON CHUNG

Ngày 20 tháng 9 năm 2021, tại Hội trường Tòa án nhân dân Thành phố Hà Tĩnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 83/2021/TLST-HNGĐ ngày 27/7/2021 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 06/9/2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Phan Thị T, sinh năm 1990 Địa chỉ: Số 12, ngõ 28, đường Hải Thượng Lãn Ô, thành phố H, tỉnh Hà T – Có mặt.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Ngọc A, sinh năm 1985 Địa chỉ: Tổ dân phố 1, phường Nguyễn D, thành phố H, tỉnh Hà T (Hiện đang thi hành án tại trại giam Xuân H, tỉnh Hà T; Địa chỉ: xã Lưu Vĩnh S, huyện Thạch H, tỉnh Hà T) – Vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, bản tự khai, quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Phan Thị T trình bày:

Chị và anh Nguyễn Ngọc A kết hôn vào ngày 09/02/2010, hôn nhân tự nguyện, đăng ký kết hôn tại UBND phường Tân G, thành phố H. Sau khi kết hôn vợ chồng về sống tại gia đình bố mẹ chồng ở phường Nguyễn D, thành phố H. Hai vợ chồng làm nghề tự do. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc cho đến khoảng giữa năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn kéo dài cho đến năm 2018, khi anh Nguyễn Ngọc A bị bắt về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Từ đầu năm 2018 chị T và con đã về nhà mẹ đẻ ở phường Tân G, thành phố H sinh sống cho đến nay. Nguyên nhân chính dẫn đến mâu thuẫn giữa vợ chồng là anh Nguyễn Ngọc A thường hay cờ, bạc và thường xuyên chửi bới, đánh đập chị T. Đặc biệt cuối năm 2018 anh Ngọc A bị bắt về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” thì mâu thuẫn giữa vợ chồng càng thêm trầm trọng. Hiện tình cảm vợ chồng không còn nên chị Phan Thị T xin được ly hôn với anh Nguyễn Ngọc A.

Về con chung: Vợ, chồng có một con chung tên là Nguyễn Văn Đ, sinh ngày 15/12/2013. Nếu được ly hôn chị Phan Thị T xin được trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Không yêu cầu anh Nguyễn Ngọc A phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ti bản tự khai bị đơn anh Nguyễn Ngọc A trình bày:

Anh Nguyễn Ngọc A thừa nhận về thời gian, điều kiện kết hôn như chị T trình bày là đúng. Anh Nguyễn Ngọc A thừa nhận vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn từ năm 2018, hiện tình cảm vợ chồng không còn, chị Phan Thị T làm đơn xin ly hôn thì anh Ngọc A đồng ý.

Về con chung: Vợ, chồng có một con chung Nguyễn Văn Đ, sinh ngày 15/12/2013. Anh Nguyễn Ngọc A đồng ý giao con chung cho chị Phan Thị T trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Nguyễn Ngọc A không phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ti phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H phát biểu quan điểm:

- Về việc tuân theo pháp luật: Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng và đầy đủ thủ tục tố tụng theo quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại các Điều 70, Điều 71 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn có bản tự khai, có đơn xin vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án.

- Về nội dung vụ án: Qua các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa thể hiện:

+Về hôn nhân: tình trạng hôn nhân giữa chị Phan Thị T và anh Nguyễn Ngọc A đã trầm trọng, mâu thuẫn vợ chồng kéo dài, mục đích hôn nhân là xây dựng một gia đình hòa thuận, hạnh phúc không đạt được. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: cho chị Phan Thị T được ly hôn với anh Nguyễn Ngọc A; Về con: Giao con chung Nguyễn Văn Đ, sinh ngày 15/12/2013 cho chị Phan Thị T trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Nguyễn Ngọc A không phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản, nợ chung: chị Phan Thị T và anh Nguyễn Ngọc A không yêu cầu nên miễn xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Chị Phan Thị T khởi kiện xin ly hôn, giải quyết việc nuôi con chung với anh Nguyễn Ngọc A nên quan hệ pháp luật được xác định là “Tranh chấp ly hôn, giải quyết việc nuôi con chung”. Anh Nguyễn Ngọc A hiện trú tại: Tổ dân phố 1, phường Nguyễn D, thành phố H. Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Hà T thụ lý, giải quyết theo thủ tục sơ thẩm là đúng thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự. Quá trình giải quyết vụ án anh Nguyễn Ngọc A xin vắng mặt tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, đề nghị xét xử vắng mặt (do hiện nay anh Nguyễn Ngọc A đang phải thi hành án tại trại giam Xuân H, tỉnh Hà T). Tòa án nhân dân thành phố H, căn cứ khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, xét xử vụ án vắng mặt anh Nguyễn Ngọc A là đúng quy định pháp luật.

[2] Về nội dung vụ án:

Chị Phan Thị T và anh Nguyễn Ngọc A kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Tân G, thành phố H, tỉnh Hà T nên đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Chị Phan Thị T nhận thấy vợ chồng mâu thuẫn đã trầm trọng, kéo dài, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị T xin được ly hôn. Anh Nguyễn Ngọc A thừa nhận quá trình chung sống vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn. Hiện vợ chồng không còn tình cảm, chị Phan Thị T làm đơn xin ly hôn thì anh cũng đồng ý.

Căn cứ vào lời khai của các bên đương sự, căn cứ vào các tài liệu chứng cứ được thu thập hợp lệ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy: tình trạng hôn nhân giữa chị Phan Thị T, anh Nguyễn Ngọc A đã trầm trọng, mâu thuẫn vợ chồng kéo dài, mục đích hôn nhân là xây dựng một gia đình hòa thuận, hạnh phúc không đạt được. Vì vậy, cần căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình giải quyết cho chị Phan Thị T được ly hôn anh Nguyễn Ngọc A là có căn cứ, đúng pháp luật.

Về con chung: Chị Phạm Thị T và anh Nguyễn Ngọc A đều thừa nhận vợ chồng có 1 con chung tên là Nguyễn Văn Đ, sinh ngày 15/12/2013. Chị Phan Thị T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Hội đồng xét xử xét thấy: chị T hiện có chổ ở ổn định, con từ nhỏ chủ yếu sống với chị, được chăm sóc chu đáo và cho đi học. Con cũng có đơn trình bày nguyện vọng là mong muốn được ở cùng với chị T. Bản thân anh Nguyễn Ngọc A hiện đang phải thi hành án tại trại giam Xuân H, tỉnh Hà T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, anh cũng có nguyện vọng giao con cho chị T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Vì vậy, cần giao con chung cho chị Phan Thị T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp quy định tại Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình. Chị T không yêu cầu anh Nguyễn Ngọc A đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con nên miễn xét. Anh Nguyễn Ngọc A có quyền đi lại thăm nom chăm sóc con chung không ai được cản trở.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị Phan Thị T và anh Nguyễn Ngọc A không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Xét ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H tại phiên tòa là có căn cứ, phù hợp các quy định pháp luật.

[4] Về án phí sơ thẩm: Căn cứ khoản 4 điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, điểm 1.1 khoản 1 mục II Danh mục mức án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14: Nguyên đơn chị Phan Thị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

[5] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại các điều 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 58; Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình; Căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 228, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, điểm 1.1 khoản 1 mục II Danh mục mức án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14; xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Phan Thị T được ly hôn anh Nguyễn Ngọc A.

2. Về con chung: Giao con chung Nguyễn Văn Đ, sinh ngày 15/12/2013 cho chị Phan Thị T trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Nguyễn Ngọc A không phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con.

Anh Nguyễn Ngọc A có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Chị Phan Thị T và anh Nguyễn Ngọc A không yêu cầu, Tòa án không giải quyết.

4. Về án phí: Buộc chị Phan Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng chị T đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2016/0001686 ngày 27 tháng 7 năm 2021 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố H, tỉnh Hà T.

5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt có quyền làm đơn kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị đơn vắng mặt có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc tống đạt hợp lệ.

6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì bên được thi hành án dân sự, bên phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2021/HNGĐ-ST ngày 20/09/2021 về ly hôn, tranh chấp con chung

Số hiệu:10/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hà Tĩnh - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về