Bản án 10/2021/HNGĐ-ST ngày 14/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

 TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ T - TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 10/2021/HNGĐ-ST NGÀY 14/01/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 14 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 44/2021/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 10 năm 2020 về tranh chấp "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2020/QĐXX-ST ngày 17 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Chu Thị H - Sinh năm 1976.

Địa chỉ: Xóm 3 Văn Xá, huyện K, tỉnh HN.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn H2 - Sinh năm 1975 Nơi ĐKHKTT: Thôn Cốc Hạ 2, phường Đ, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa Hiện anh H2 đang chấp hành án tại đội 11, phân trại I, trại giam số 5, Cục C10 Bộ Công An. Địa chỉ: Thị trấn T, huyện Y, tỉnh Thanh Hóa Tại phiên tòa có mặt chị H, vắng mặt anh H2

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, được bổ sung tại bản tự khai, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, chị Chu Thị H trình bày:

- Về hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Văn H2 kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND phường Đ, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa vào năm 2010. Sau khi kết hôn anh chị chung sống hòa thuận hạnh phúc được khoảng hai tháng thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình không H2, bất đồng trong quan điểm sống dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra va chạm. Mâu thuẫn trầm trọng nhất là vào tháng 4 năm 2011 và vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay, không ai còn quan tâm chăm sóc đến ai. Chị đã đưa con về nhà mẹ đẻ tại Hà Nam sinh sống, còn anh H2 đang chấp hành án tại Trại giam số 5, Cục C10, Bộ Công an thuộc huyện Y, tỉnh Thanh Hóa.

Nay chị H xét thấy tình cảm không còn, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh H2.

- Về con chung: Anh chị có 01 con chung: Cháu Nguyễn Hồng N, sinh ngày 21/9/2011. Ly hôn, chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu N và không yêu cầu anh H2 cấp dưỡng nuôi con - Về tài sản, công nợ: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tại biên bản lấy lời khai, anh Nguyễn Văn H2 trình bày như sau:

- Về hôn nhân: Anh H2 trình bày thống nhất với chị H về thời gian, điều kiện kết hôn, nguyên nhân mâu thuẫn của vợ chồng anh. Nay chị H đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh thì anh cũng đồng ý.

- Về con chung: Anh chị có 01 con chung: Cháu Nguyễn Hồng N, sinh ngày 21/9/2011. Ly hôn, anh H2 đồng ý giao cháu N cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng và anh không cấp dưỡng nuôi con chung do anh đang phải đi chấp hành án.

- Về tài sản, công nợ: Anh H2 không yêu cầu Tòa án giải quyết Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt H2 lệ các văn bản tố tụng cho anh Nguyễn Văn H2 theo quy định của pháp luật. Do anh H2 đang Chấp hành án tại Trại giam số 5, Cục C10, Bộ Công an thuộc huyện Y, tỉnh Thanh Hóa nên không đến Tòa án để tham gia phiên họp và hòa giải được. Anh H2 đề nghị Tòa án đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.

* Qua xác minh tại địa phương thể hiện: quá trình anh H2 và chị H chung sống có xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn của anh chị không thể hiện ra bên ngoài nên chính quyền địa phương không nắm được. Từ tháng 4 năm 2011 anh H2 và chị H đã sống ly thân nhau từ đó cho đến nay. Chị H không sinh sống tại địa phương nữa. Còn anh H2 hiện nay đang đi chấp hành án tại Trại giam số 5, cục C10, bộ Công an.

Về con chung: Anh H2, chị H có 01 con chung là Cháu Nguyễn Hồng N, sinh ngày 21/9/2011 Về tài sản và công nợ: Địa phương không biết nên không cung cấp được thông tin gì cho Tòa án.

* Tại bản tự khai cháu Nguyễn Hồng N trình bày nếu anh H2 và chị H ly hôn, cháu có nguyện vọng được ở với chị H.

Tại phiên tòa, chị H giữ nguyên yêu cầu ly hôn; về con chung: đề nghị Tòa án giao cháu N cho chị trực tiếp nuôi dưỡng, chị không yêu cầu anh H2 cấp dưỡng tiền nuôi con chung; về tài sản công nợ chung: chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và nguyên đơn, bị đơn đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật, bị đơn đã được triệu tập đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn.

Về yêu cầu khởi kiện, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền: Đây là tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn và bị đơn có nơi đăng ký hộ khẩu thường trú tại thành phố T. Việc Tòa án nhân dân thành phố T thụ lý, giải quyết là đúng quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về tố tụng: Anh H2 đang chấp hành án tại Trại giam số 5, Cục C10, Bộ Công an nên không đến Tòa án để giải quyết vụ án được, vì vậy anh H2 đề nghị Tòa án đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt H2 lệ các văn bản tố tụng cho anh. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[3] Về hôn nhân: Anh H2 và chị H kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền là hôn nhân H2 pháp.

Thu thập chứng cứ tại địa phương và lời khai của anh H2, chị H đều thừa nhận: Sau khi kết hôn anh chị chung sống hòa thuận được khoảng hai tháng thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình không H2, bất đồng trong quan điểm sống dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra va chạm. Mâu thuẫn trầm trọng nhất là vào tháng 4 năm 2011 và vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay, không ai còn quan tâm chăm sóc đến ai. Như vậy, thời gian chung sống của anh H2 và chị H với nhau không lâu, thời gian ly thân kéo dài. Nay chị H đề nghị được ly hôn đối với anh thì anh cũng đồng ý. Xét thấy cuộc sống hôn nhân giữa anh H2 và chị H đã lâm vào tình trạng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, cả hai đều xác định tình cảm vợ chồng không còn và cùng thống nhất ly hôn. Do đó Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 55 Luật hôn nhân gia đình để xử công nhận thuận tình ly hôn cho anh H2 và chị H.

[4]. Về con chung: Anh chị có 01 con chung: Cháu Nguyễn Hồng N, sinh ngày 21/9/2011. Chị H có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu N và không yêu cầu anh H2 đóng góp tiền nuôi con chung với chị. Anh H2 cũng đồng ý giao cháu N cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, anh không đóng góp tiền nuôi con chung với chị H. Xét thấy, anh H2 hiện nay đang đi chấp hành án, không có thu nhập, không có điều kiện để trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con hàng ngày. Chị H có công việc và có thu nhập ổn định. Kể từ khi anh chị ly thân cho đến nay, cháu N vẫn do chị H nuôi dưỡng và đảm bảo tốt về mọi mặt. Cháu N cũng có nguyện vọng xin được ở với mẹ. Căn cứ vào Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, giao cho chị H là được tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu N, không yêu cầu anh H2 cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

[5]. Về tài sản, công nợ: Anh H2, chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[6]. Về án phí: Chị H phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm a khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 271, khoản 1 điều 273, Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 55, Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14 .

Về hôn nhân: Xử công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Chu Thị H và anh Nguyễn Văn H2.

Về con chung: Anh H2 và chị H có 01 con chung: Cháu Nguyễn Hồng N, sinh ngày 21/9/2011. Ly hôn giao cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng cháu N, anh H2 không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung với chị H.

Anh H2 có quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở. Về tài sản, công nợ: Anh H2 và chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí: Chị Chu Thị H phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng nộp theo biên lại số AA/2017/0001563 ngµy 21/10/2020 của chi cục thi hành án dân sự thành phố T (chị H đã nộp đủ án phí).

Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2021/HNGĐ-ST ngày 14/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:10/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về