Bản án 10/2021/HNGĐ-ST ngày 12/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN - THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 10/2021/HNGĐ-ST NGÀY 12/01/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 12 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 667/2020/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 10 năm 2020 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 281/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 12 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 214/2020/QĐST-HNGĐ ngày 28 tháng 12 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Vũ Thị D, sinh năm 1983; nơi cư trú: Thôn 8, xã M, huyện T, thành phố Hải Phòng. Có mặt.

- Bị đơn: Anh Vũ Quốc H, sinh năm 1978; nơi cư trú: Thôn 8, xã M, huyện T, thành phố Hải Phòng. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Chị Vũ Thị D là nguyên đơn, khởi kiện với nội dung: Chị kết hôn với anh Vũ Quốc H trên cơ sở tự nguyện, được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện T, thành phố Hải Phòng vào ngày 07 tháng 6 năm 2004. Sau lễ cưới, chị về chung sống cùng với anh H tại thôn 8, xã Minh Tân, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Cuộc sống chung vợ chồng hòa thuận đến năm 2010 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng tính tình không hòa hợp, anh H thường cờ bạc, nợ nần nhiều. Chị D đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở được khoảng 08 tháng, vì thương các con còn nhỏ nên chị về chung sống đoàn tụ cùng với anh H, đến cuối năm 2019 chị và anh H phát sinh mâu thuẫn trầm trọng, vợ chồng xảy ra xung đột. Anh H đập phá đồ đạc, chị D đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở. Vợ chồng sống ly thân nhau từ cuối năm 2019 cho đến nay.

Mâu thuẫn đã được gia đình khuyên giải nhưng không có kết quả. Nay, nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn khả năng đoàn tụ, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh Vũ Quốc H. Chị D và anh H có hai con chung tên Vũ Quốc D, sinh ngày 07 tháng 01 năm 2004 và Vũ Tường V, sinh ngày 18 tháng 9 năm 2011. Khi ly hôn, chị D đề nghị được tiếp tục nuôi dưỡng con chung tên Vũ Tường V và để anh H trực tiếp nuôi con tên Vũ Quốc D. Chị và anh H tự thỏa thuận về cấp dưỡng nuôi con, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về tài sản chung, chị và anh H tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết chia tài sản.

Anh Vũ Quốc H là bị đơn, đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng, song đến ngày mở phiên tòa, anh H vẫn không có ý kiến về việc chị Vũ Thị D xin ly hôn.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng như sau: Về thẩm quyền giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên đã tuân theo đúng quy định của pháp luật quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục do pháp luật quy định. Nguyên đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 71 và Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 72 và Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về việc giải quyết vụ án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 147, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho chị Vũ Thị D được ly hôn anh Vũ Quốc H; đề nghị giao con Vũ Tường V, sinh ngày 18 tháng 9 năm 2011 cho chị Vũ Thị D trực tiếp nuôi dưỡng; giao con Vũ Quốc D, sinh ngày 07 tháng 01 năm 2004 cho anh Vũ Quốc H trực tiếp nuôi dưỡng. Người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Nguyên đơn nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng Bị đơn là anh Vũ Quốc H đã được tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về yêu cầu của chị Vũ Thị D ly hôn với anh Vũ Quốc H Chị D và anh H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đủ điều kiện kết hôn và có đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Do đó, kết hôn giữa chị D và anh H là hợp pháp. Tài liệu xác minh tại xã M thể hiện nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm trong sinh hoạt, anh H thiếu quan tâm chăm sóc vợ và các con, vợ chồng không có sự quan tâm, chia sẻ gánh vác chung về kinh tế nên thường xuyên xảy ra cãi mắng xúc phạm nhau. Chị D và anh H đã có thời gian sống ly thân tử cuối năm 2019 đến nay, đủ để các bên nhìn nhận lại tình cảm vợ chồng, nhưng tại các bản tự khai và tại phiên tòa, chị D vẫn kiên quyết xin được ly hôn với anh Vũ Quốc H. Anh H nhận được văn bản tố tụng do Tòa án tống đạt nhưng đều vắng mặt tại các buổi hòa giải và tại phiên tòa, thể hiện anh H không quan tâm đến việc hàn gắn quan hệ vợ chồng. Từ những chứng cứ nên trên cho thấy, mục đích hôn nhân giữa chị D và anh H đã không đạt được, mâu thuẫn vợ chồng lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị D xin ly hôn anh H.

[3] Về người trực tiếp nuôi con khi ly hôn và nghĩa vụ cấp dưỡng cho con Chị D và anh H có 02 con chung tên Vũ Quốc D, sinh ngày 07 tháng 01 năm 2004 và Vũ Tường V, sinh ngày 18 tháng 9 năm 2011. Khi ly hôn, chị D đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Vũ Tường V và để anh H trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Vũ Quốc D. Xét thấy, từ khi vợ chồng sống ly thân cho đến nay, chị D là người trực tiếp nuôi con tên Vũ Tường V; việc nuôi dưỡng đã ổn định, con chung được chăm sóc, phát triển bình thường về tâm sinh lý và có nguyện vọng được ở cùng với mẹ. Cháu Vũ Quốc D hiện đang ở cùng với anh H và được anh H chăm sóc, nuôi dưỡng. Chị D và anh H đều là công nhân, đảm bảo thu nhập ổn định để nuôi con. Căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con, điều kiện, hoàn cảnh của chị D, của anh H, Hội đồng xét xử xét giao cho chị Vũ Thị D trực tiếp nuôi con tên Vũ Tường V, anh Vũ Quốc H trực tiếp nuôi con tên Vũ Quốc D là phù hợp.

Cấp dưỡng nuôi con là nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con. Chị D không yêu cầu Tòa án giải quyết về cấp dưỡng nuôi con; anh H không có quan điểm về việc cấp dưỡng nuôi con. Xét đề nghị của đương sự là tự nguyện, quyền lợi của các con vẫn được đảm bảo nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết về cấp dưỡng nuôi con trong vụ án này.

[4] Về tài sản chung, chị Vũ Thị D khai vợ chồng có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Mặt khác không có lời khai của anh Vũ Quốc H về tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết về tài sản chung trong vụ án này.

[5] Về án phí, chị Vũ Thị D phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, - Cho chị Vũ Thị D được ly hôn với anh Vũ Quốc H.

- Giao cho anh Vũ Quốc H trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Vũ Quốc D, sinh ngày 07 tháng 01 năm 2004; giao cho chị Vũ Thị D trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Vũ Tường V, sinh ngày 18 tháng 9 năm 2011 cho đến khi các con chung thành niên và có khả năng lao động, trừ trường hợp có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

- Chị Vũ Thị D phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Đối trừ với số tiền tạm ứng án phí đã nộp (ghi tại biên lai thu số 0002308 ngày 06/10/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên), chị Vũ Thị D đã nộp đủ án phí.

- Chị Vũ Thị D có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Vũ Quốc H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7a và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2021/HNGĐ-ST ngày 12/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:10/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về