Bản án 10/2020/HS-ST ngày 23/04/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VỊ THANH, TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 10/2020/HS-ST NGÀY 23/04/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 4 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 08 /2020/TLST-HS ngày 25 tháng 02 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 11/2020/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 3 năm 2020 và Thông báo dời ngày xét xử số: 20/TB-TA ngày 31/3/2020 đối với bị cáo:

Phạm Văn H (tên gọi khác: H trái cây), sinh năm 2000, tại Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang. Nơi thường trú: khu vực 3, phường IV, thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: không biết chữ; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn Th và bà Phạm Thị Xuân L; vợ: bị cáo chưa vợ; con: bị cáo chưa có con; tiền án: không; tiền sự: không. Bị bắt từ ngày 31/10/2019 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại: Ông Phan Vũ Kh, sinh năm 1999.

Nơi cư trú: ấp 7, xã Hòa An, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang. Vắng mặt.

Người tham gia tố tụng khác:

1. Ông Phan Vũ Tr, sinh năm 2000.

Nơi cư trú: ấp 7, xã Hòa An, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang. Vắng mặt.

2. Ông Hồ Minh Ph, sinh năm 2000.

Nơi cư trú: ấp Phương An, xã Phương Bình, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang. Là người làm chứng. Vắng mặt.

3. Ông Lê Thanh H, sinh năm 1963.

Nơi cư trú: khu vực 1, phường V, thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang. Là người làm chứng. Có mặt.

4. Ông Đỗ Văn H, sinh năm 1989.

Nơi cư trú: ấp Tư Sáng, xã Tân Tiến, thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang. Là người làm chứng. Vắng mặt.

4. Bà Lê Thị Mỹ H, sinh năm 1998.

Nơi cư trú: ấp 1, xã Vị Tân, thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang. Là người làm chứng. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 01 giờ khuya sáng ngày 03/8/2019, bị cáo Phạm Văn H điều khiển xe môtô hiệu Vision màu đỏ, biển số 95B1 – 438.15 (mượn của chị ruột là Lê Xuân H, (cư trú khu vực 3, phường IV, thành phố Vị Thanh) chạy đến quán ăn Bé B tại phường I, thành phố Vị Thanh để ăn khuya. Khi H điều khiển xe môtô chạy ngang quán Bê thui số 5, đường Nguyễn Công Trứ, khu vực 4, phường I, thành phố Vị Thanh thì thấy xe môtô nhãn hiệu Suzuki, loại xe Raider, biển số 95E1 – 633.16 của anh Phan Vũ Kh là nhân viên phục vụ đang đậu ở trước quán nên nảy sinh ý định lấy trộm xe bán lấy tiền tiêu xài.

Đến khoảng 04 giờ cùng ngày, H mang theo cây đoản, rồi kêu Lê Thị Mỹ H (bạn gái sống chung như vợ chồng với H) thức dậy, chở H ra Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hậu Giang (cũ) gần quán Bê thui số 5 nói là để mượn xe người quen đi công việc. Sau đó, H điều khiển xe môtô Vision màu đỏ, biển số 95B1 – 438.15 chở H đến Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hậu Giang (cũ). H chở H đi trên đường Nguyễn Công Trứ. Khi đến quán Bê thui số 5, H thấy không còn bàn nhậu, có người giăng mùng ngủ trong quán và có xe môtô nhãn hiệu Suzuki, loại xe Raider, biển số 95E1 – 633.16 đậu kế bên. Lúc này, H dừng xe dưới lòng đường Nguyễn Công Trứ và kêu H đợi ở ngoài, còn H xuống xe đi bộ vào quán Bê thui. H đi đến tiếp cận chiếc xe môtô biển số 95E1 – 633.16, dùng cây đoản bẻ ổ khóa xe. Thấy đèn xanh bật lên, H lấy trộm xe và dẫn xuống đường Nguyễn Công Trứ, đến nơi H đang đứng đợi.

Khi gặp H, H kêu H về phòng ngủ, còn H điều khiển xe vừa trộm được đến nhà của Đỗ Văn H (Hiền M), cư trú ấp Thạnh Trung, xã Hỏa Lựu, thành phố Vị Thanh rủ H Miên đến nhà Đặng Thanh Nh (Nhàn râu), cư trú số 363, ấp Phương Quới C, xã Phương Bình, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang (là anh quen biết ngoài xã hội) chơi, thì H đồng ý. H điều khiển xe trộm được chở H đến nhà Nh. đến nơi, H nhờ Nh bán xe môtô nhãn hiệu Suzuki, loại xe Raider, biển số 95E1 – 633.16 vừa trộm được nhưng Nh không đồng ý. Lúc này, H nói với Nh “cho em gửi xe vài ngày!” thì Nh kêu Phạm Phi Đan Tr, cư trú khu vực 3, phường IV, thành phố Vị Thanh tháo biển số xe ra mang vào nhà. Sau đó, lực lượng Công an đến cả nhóm bỏ chạy. H và Nh chạy thoát.

Vật chứng của vụ án:

- 01 (một) xe môtô nhãn hiệu Suzuki, loại xe Raider, màu đen, biển số 95E1- 633.16, số khung 11ANKV120913, số máy CGA1521255, dung tích xi lanh 147 cm3, đã qua sử dụng.

- 01 (một) đôi giày màu trắng hiệu FASHION.

- 01 (một) mũ bảo hiểm màu đen không rõ nhãn hiệu.

Đối với cây đoản mà H dùng để bẻ khóa xe lấy trộm. Trên đường đi đến nhà Đỗ Văn H, H ném cây đoản xuống cầu Cái Sình thuộc khu vực 2, phường VII, thành phố Vị Thanh nên Cơ quan cảnh sát điều tra không thu hồi được.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 38/BKLĐGTS ngày 07/8/2019 của Hội đồng thẩm định theo Quyết định 1582/QĐ-UBND kết luận giá trị còn lại của 01 (một) xe môtô nhãn hiệu Suzuki, loại xe Raider, màu đen, biển số 95E1 – 633.16, số khung 11ANKV120913, số máy CGA1521255, dung tích xi lanh 147 cm3 là 46.731.000đ (bốn mươi sáu triệu bảy trăm ba mươi mốt nghìn đồng).

Ngày 08/01/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Vị Thanh đã trả lại cho Phan Vũ Kh 01 (một) xe môtô nhãn hiệu Suzuki, loại xe Raider, màu đen, biển số 95E1- 633.16, số khung 11ANKV120913, số máy CGA1521255, dung tích xi lanh 147 cm3, đã qua sử dụng.

Vật chứng còn lại của vụ án được nhập kho vật chứng thuộc Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Vị Thanh để bảo quản và xử lý theo quy định.

Tại bản Cáo trạng số: 10/CT-VKS- TPVT ngày 24/02/2020 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang truy tố bị cáo Phạm Văn H về tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội; tranh luận giữ nguyên Cáo trạng truy tố đề nghị:

Áp dụng: khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Phạm Văn H từ 09 (chín) tháng đến 12 (mười hai) tháng tù. Các vấn đề khác đề nghị giải quyết theo pháp luật.

Phát biểu tự bào chữa bị cáo thừa nhận hành vi của mình là phạm tội, xin Tòa xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Người bị hại anh Phan Vũ Kh tại phiên tòa vắng mặt nên không phát biểu yêu cầu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Xét hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, của Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Xét hành vi phạm tội của bị cáo. Tại phiên tòa bị cáo H thừa nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng Viện kiểm sát truy tố. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên toà là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai người bị hại, người làm chứng; vật chứng thu giữ; phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ vào các chứng cứ này, đối chiếu với quy định tại Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (sau đây gọi tắt là Bộ luật Hình sự), Toà có đủ cơ sở kết luận: hành vi lén lút chiếm đoạt xe môtô nhãn hiệu Suzuki, biển số 95E1- 633.16, có giá trị theo định giá là 46.731.000 đồng mà bị cáo Phạm Văn H thực hiện như nêu trên có đủ yếu tố cấu thành tội Trộm cắp tài sản như Cáo trạng Viện kiểm sát truy tố. Bị cáo H thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản có giá trị hơn 2.000.000 đồng, nhưng dưới 50.000.000 đồng là đủ yếu tố cấu thành cơ bản của tội phạm, phạm tội trong trường hợp không có tình tiết tăng nặng định khung hình phạt, nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

[3]. Xét tính nguy hiểm của hành vi. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản của bị hại được pháp luật bảo vệ. Hành vi của bị cáo gây hoang mang cho người dân trong việc bảo quản tài sản; gây mất an ninh, trật tự tại địa phương. Mặc dù giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt là không quá lớn, nhưng hành vi thể hiện rất liều lĩnh, bất chấp sự phát hiện của chủ sở hữu và những người xung quanh, nên việc đưa bị cáo ra xét xử hình sự về hành vi này là cần thiết, nhằm để giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm tại địa phương.

[4]. Xét về nhân thân. Bị cáo là người chưa có tiền án, tiền sự. Tuy nhiên, xét thấy nhân thân bị cáo hiện tại sống không có nghề nghiệp ổn định, thiếu sự quan tâm của gia đình; thường xuyên tụ tập qua lại với những bạn bè phức tạp (được thể hiện trong hồ sơ), nhân thân bị cáo là người mà chính quyền địa phương khó quản lý.

[5]. Về tình tiết tăng nặng. Bị cáo phạm tội trong trường hợp không có tình tiết tăng nặng theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[6]. Về tình tiết giảm nhẹ. Sau khi phạm tội, quá trình điều tra, cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo hành vi phạm tội, nên được giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, nên được giảm nhẹ quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[7]. Căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội, xét nhân thân bị cáo sống lêu lõng, không nghề nghiệp ổn định, hành vi phạm tội thể hiện rất liều lĩnh, nên cần xử hình phạt tù có thời hạn đủ để giáo dục.

[8.]. Về tang vật chứng:

- 01 (một) xe môtô nhãn hiệu Suzuki, loại xe Raider, màu đen, biển số 95E1- 633.16, số khung 11ANKV120913, số máy CGA1521255, dung tích xi lanh 147 cm3, đã qua sử dụng. Cơ quan điều tra Công an thành phố Vị Thanh đã xử lý trả lại cho bị hại anh Phan Vũ Kh. Anh Kh đã nhận xong, nên Tòa không xem xét lại.

- 01 (một) đôi giày màu trắng hiệu FASHION.

- 01 (một) mũ bảo hiểm màu đen không rõ nhãn hiệu. Là các tài sản cá nhân, nhưng hiện không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

[9]. Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra bị hại Phan Vũ Kh sau khi nhận lại tài sản đã không yêu cầu bồi thường gì thêm. Tại phiên tòa anh Kh vắng mặt không thể hiện yêu cầu, nên Tòa không xem xét.

[10]. Về án phí: Buộc bị cáo chịu theo quy định của pháp luật.

[11]. Về phát biểu luận tội và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà: xét, đề nghị về tội danh và mức hình phạt là có căn cứ, Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn H phạm tội Trộm cắp tài sản.

Áp dụng: khoản 1 Điều 173; các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Văn H 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn phạt tù được tính từ ngày 31/10/2019.

Áp dụng Điều 329 Bộ luật tố tụng Hình sự. Tiếp tục tạm giam bị cáo Phạm Văn H 45 (bốn mươi lăm) ngày để đảm bảo thi hành án. Thời hạn tạm giam tính từ ngày tuyên án ngày 23/4/2020.

Về tang vật chứng: áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự. Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự. Tịch thu tiêu hủy các vật chứng sau: 01 (một) đôi giày màu trắng hiệu FASHION. 01 (một) mũ bảo hiểm màu đen không rõ nhãn hiệu.

Về án phí: áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự. Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 và Danh mục mức án phí, lệ phí Toà án kèm theo.

Buộc bị cáo Phạm Văn H chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, được quyền làm đơn kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày Toà tuyên án. Người vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2020/HS-ST ngày 23/04/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:10/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vị Thanh - Hậu Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về