Bản án 10/2020/HS-ST ngày 22/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ XUYÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 10/2020/HS-ST NGÀY 22/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Mở phiên tòa ngày 22 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 15/2020TLST - HS ngày 04 tháng 5 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/2020QĐXXST – HS, ngày 07 tháng 5 năm 2020 đối với:

Bị cáo Trịnh Văn T, sinh năm 1984; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú: Thôn T, xã M, huyện Phú Xuyên, TP Hà Nội; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Văn hóa: 06/12; Là con ông Trịnh Văn T và bà Nguyễn Thị Đ; Vợ là: Vũ Thị T, đã có 02 con lớn 12 tuổi, nhỏ 08 tuổi; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/01/2020 đến nay. Hiện tạm giam tại Trại tạm giam số 02 – Công an TP Hà Nội. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Cáo trạng của VKSND và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do mắc nghiện ma túy nên cuối tháng 12/2019, Trịnh Văn T ở thôn T, xã M tìm đến khu vực Cầu Lương thuộc địa phận xã M gặp và mua của một người đàn ông không quen biết một số ma túy trị giá 3.500.000đ đem về cât giấu tại nhà mục đích để sử dụng dần. Khoảng 21h ngày 27/01/2020 ( tức mùng 3 tết ), khi Trịnh Văn T đang ở nhà thì lần lượt có Nguyễn Văn L, Đinh Văn Th, Đặng Tuấn H đến chơi chúc tết. Trong lúc tất cả đang ngồi nói chuyện thì tổ tuần tra Công an xã M đến kiểm tra hành chính. Quá trình kiểm tra, phát hiện bên cạnh phía bên trái chiếc ghế Trịnh Văn T đang ngồi có 01 coóng thủy tinh hình con ngựa đầu cao khoảng 25 cm, 04 gói nilon bên trong chứa 40 viên nén màu hồng, 01 gói giấy nhỏ màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng, 07 túi nilon bên trong chứa tinh thể màu trắng (Tất cả các chất thu giữ được đều nghi là ma túy) nên Cơ quan Công an đã lập biên bản bắt người trong trường hợp phạm tội quả tang thu giữ và niêm phong tang vật gửi đi giám định theo quy định và đưa các đối tượng về trụ sở Công an huyện để làm rõ sự việc.

Quá trình điều tra, Trịnh Văn T khai nhận toàn bộ số ma túy trên là của T mua về cất giấu tại nhà để sử dụng dần không liên quan đến L, Th, H; các đối tượng L, Th, H khai chỉ đến nhà T chúc tết, không biết T có số ma túy nêu trên cũng không đến để sử dụng ma túy tại nhà của T.

Tại kết luận giám định số 831/KLGĐ – PC 09, ngày 03 tháng 02 năm 2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội xác định: 40 viên nén màu hồng bên trong 04 túi nilon đều là ma túy loại Methamphetamine, tổng khối lượng 3, 771 gam; Chất bột màu trắng bên trong 01 gói giấy là ma túy loại Heroin, khối lượng 0,067 gam; Tinh thể màu trắng bên trong 07 túi nilon đều là ma túy loại Methamphetamine tổng khối lượng 2,648 gam.

Tại cáo trạng số 13/CT - VKS ngày 23/4/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Xuyên truy tố bị cáo Trịnh Văn T ra trước tòa để xét xử về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo Điểm g Khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Trịnh Văn T khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Phú Xuyên giữ nguyên quan điểm về tội danh, điều luật áp dụng theo nội dung bản Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điểm g Khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự, điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt Trịnh Văn T từ 05 đến 06 năm tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, thời hạn tù tính từ ngày 27/01/2020; Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; Đề nghị tịch thu tiêu hủy vật chứng của vụ án; và buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Tranh luận tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, không có ý kiến tranh luận. Lời nói sau cùng của bị cáo là đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được xem xét, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Xuyên, của Điều tra viên và Kiểm sát viên cùng những người tiến hành tố tụng khác trong quá trình điều tra, truy tố, đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan và của người tiến hành tố tụng...do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội:

Xét lời khai của bị cáo tại phiên, phù hợp với nội dung kết luận của cơ quan điều tra, Cáo trạng của Viện kiểm sát, phù hợp lời khai của chính bị cáo trong quá trình điều tra cũng như các tài liệu, chứng cứ khác thu thập trong hồ sơ như: Biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, Sơ đồ hiện trường, Biên bản niêm phong vật chứng, Kết luận giám định... Chứng tỏ đã có đủ căn cứ để khẳng định: Vào khoảng 21 giờ 00 phút ngày 27/01/2020, Trịnh Văn T đang có hành vi tàng trữ trái phép 6,419 gam Methamphetamine và 0,067 gam Heroin thì bị bắt quả tang ngay tại nhà Tuấn ở thôn T, xã M, huyện P.

Với hành vi nêu trên, việc bị cáo Trịnh Văn T bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Xuyên truy tố ra trước Tòa để xét xử về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật. Tội danh và hình phạt quy định tại Điểm g Khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội bởi lẽ đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý đặc biệt của Nhà nước đối với các chất ma tuý, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an địa phương... khiến dư luận bất bình, đòi hỏi phải xử lý bị cáo bằng pháp luật hình sự với một hình phạt nghiêm khắc tương xứng với tính chất nguy hiểm trong hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện đồng thời cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để giáo dục bị cáo nhận thức sâu sắc về tội lỗi của mình mà ăn năn hối cải về sau và cũng là để làm gương cho những kẻ khác.

[3] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ hình phạt:

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ: Khi quyết định hình phạt, đã cân nhắc đến việc bị cáo trong quá trình tố tụng thành khẩn khai báo và có thái độ ăn năn hối cải là tình tiết quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự mà giảm nhẹ một phần hình phạt để chứng tỏ sự nhân đạo của Pháp luật.

[4] Về hình phạt bổ sung và các vấn đề liên quan:

Do bị cáo hoàn cảnh kinh tế khó khăn, thu nhập không ổn định...nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung bằng phạt tiền đối với bị cáo.

Đối với người đàn ông khoảng 45 tuổi đã bán ma túy cho T, quá trình điều tra chưa xác định được danh tính, địa chỉ, nên Cơ quan Điều tra tách phần tài liệu liên quan đến đối tượng này khi nào xác định được sẽ xử lý sau nên chưa xét.

Đối với các đối tượng Nguyễn Văn L, Đinh Văn Th, Đặng Tuấn H mặc dù có mặt tại nhà T tại thời điểm T bị bắt và đều có kết quả xét nghiệm dương tính với chất ma túy nhưng quá trình điều tra không có chứng cứ chứng minh L, Th, H có sử dụng hay liên quan đến khối lượng ma túy mà T tàng trữ nên cơ quan Công an, VKSND không đề cập xử lý là có cơ sở.

Vật chứng của vụ án gồm: 01 phong bì niêm phong bên trong có chứa 6,419 gam Methamphetamine và 0,067 gam Heroin theo Kết luận số 831/KLGĐ – PC 09 ngày 03 tháng 02 năm 2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội và 01 chiếc coóng thủy tinh hình con ngựa cao khoảng 25 cm là vật cấm tàng trữ, lưu hành hoặc không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu huỷ.

Ngoài hình phạt, bị cáo Trịnh Văn T còn phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

 1. Tuyên bố: Bị cáo Trịnh Văn T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Áp dụng Điểm g Khoản 2 Điều 249; điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử:

Phạt bị cáo Trịnh Văn T 06 ( Sáu ) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 27/01/2020. Tiếp tục giam bị cáo để hỗ trợ công tác thi hành án. ( Có quyết định tạm giam kèm theo ).

3. Áp dụng điểm a, c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên:

Tịch thu để tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong mặt trước có hình dấu vuông có ghi Công an thành phố Hà Nội, đơn vị Công an huyện Phú Xuyên, tên đối tượng Trịnh Văn T, SN 1984, HKTT: thôn T, xã M, huyện Phú Xuyên, TP Hà Nội, ngày niêm phong 27/01/2020; mặt sau phong bì có chữ ký của đối tượng và giám định viên; bên trong phong bì có chứa 6,419 gam Methamphetamine và 0,067 gam Heroin theo Kết luận số 831/KLGĐ – PC 09 ngày 03 tháng 02 năm 2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội là vật cấm tàng trữ, lưu hành;

Tịch thu để tiêu hủy 01 chiếc coóng thủy tinh hình con ngựa cao khoảng 25 cm không có giá trị sử dụng.

Toàn bộ tang vật hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội.

4. Áp dụng Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý án phí, lệ phí Tòa án : Buộc bị cáo Trịnh Văn T phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm, báo bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2020/HS-ST ngày 22/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:10/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Xuyên - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về