Bản án 10/2020/HS-ST ngày 18/02/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P, TỈNH N

BẢN ÁN 10/2020/HS-ST NGÀY 18/02/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 02 năm 2020 tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố P xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 02/2020/TLST-HS ngày 09 tháng 01 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 11/2020/QĐXXST- HS ngày 05 tháng 02 năm 2020, đối với bị cáo:

NGUYỄN H, sinh ngày 10 tháng 10 năm 1991, tại N. Nơi ĐKNKTT: khu phố A, phường M, thành phố P, tỉnh N; nghề nghiệp: thợ sửa điện lạnh; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn V và bà Lê Thị B; tiền án: Bản án số 11/2019/HSST ngày 09 tháng 7 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện N.H.(tỉnh N) xử phạt bị cáo 06 tháng tù nhưng được hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 tháng tính từ ngày tuyên án về tội “trộm cắp tài sản”. Tiền sự: không. Bị cáo tạm giam từ ngày 18 tháng 11 năm 2019. Hiện bị cáo đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố P. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại: Anh Nguyễn M, sinh năm: 1972, trú: khu phố B, phường T, thành phố P (có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghiã vụ liên quan (có đơn xin xét xử vắng mặt):

+ Ông Nguyễn Văn X, trú: khu phố C, phường M, thành phố P.

+ Bà Ngô Thị K, sinh năm: 1967, trú: khu phố D, phường M, thành phố P.

- Người làm chứng (có đơn xin xét xử vắng mặt): Anh Võ T, sinh năm: 1970, trú: khu phố S, phường M, thành phố P.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do không có tiền tiêu xài cá nhân nên khoảng 09 giờ ngày 27 tháng 10 năm 2019, Nguyễn H điều khiển xe mô tô hiệu Y Sirius màu xanh đen, biển kiểm soát 85D1- 211.xx chạy xung quanh khu vực thành phố P để trộm cắp tài sản.

Khi đến bãi đất trống phía sau khách sạn G thuộc khu phố K, phường M, H nhìn thấy có nhiều bộ giàn giáo của anh Nguyễn M không có người trông coi, H dựng xe mô tô chở đến tiệm phế liệu bán cho bà Ngô Thị K với số tiền 126.000 đồng, số tiền bán được giàn giáo H đã tiêu xài cá nhân hết. Đến khoảng 11 giờ cùng ngày, H tiếp tục quay lại khu vực nêu trên để trộm cắp gìan giáo, khi H đang buộc hai chân giàn giáo lên xe để chở đi bán thì bị anh Võ T bắt quả tang, trình báo Công an phường M. Tại cơ quan điều tra, H đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình (bút lục số 27- 28, 48-51, 63-64, 67- 70, 64- 75).

Tại Biên bản định gía tài sản trong tố tụng hình sự thành phố P xác định:

05 chân giàn giáo có chiều cao 1,8m, chiều ngang 1,2m, trị giá 750.000 đồng (bút lục 30- 31) Cáo trạng số 07/QĐ-VKSPR ngày 09 tháng 01 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P đã truy tố bị cáo Nguyễn H về tội "trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố theo cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo 06 tháng đến 09 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản”.

Bị cáo không tham gia tranh luận.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức được hành vi phạm tội của mình là trái pháp luật và mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố P, Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, điều tra viên, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục tố tụng theo quy định tại Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn H thừa nhận: Vào sáng ngày 27 tháng 10 năm 2019, bị cáo đã thực hiện hành vi lén lút trộm cắp 5 chân giàn giáo của anh Nguyễn M trị giá 750.000 đồng. Bị cáo Nguyễn H đã có tiền án về tội “trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp, do đó cáo trạng số 07/QĐ-VKSPR ngày 09 tháng 01 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P truy tố bị cáo về tội "trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 điều 173 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo Nguyễn H là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến tài sản của công dân, ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an ninh tại địa phương nên cần phải xử lý nghiêm minh nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung. Tuy nhiên Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo, phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn theo quy định tại điểm h, s khoản 1 điều 51 Bộ luật Hình sự nên được xem xét cân nhắc khi quyết định hình phạt.

[4] Trách nhiệm dân sự: Anh Nguyễn M đã nhận lại 05 chân gìan giáo và không yêu cầu bị cáo có nghĩa vụ bồi thường thêm, bà Ngô Thị K giao nộp cho cơ quan điều tra 03 chân giàn giáo đã mua từ bị cáo và không yêu cầu bị cáo có nghiã vụ bồi thường 126.000 đồng, nên Hội đồng xét xử không xét.

[5] Đối với 01 xe mô tô hiệu Y Sirius màu xanh đen, biển kiểm soát 85D1- 211.xx số máy 5C6J- 108xxx, số khung J0EY- 108xxx do chị Nguyễn Thị K sinh năm 1993, trú: khu phố H, thị trấn O, huyện V đứng tên trong giấy chứng nhận đăng ký mô tô, ông Nguyễn Văn X là cha ruột bị cáo sử dụng xe làm phương tiện đi lại. Khi cho H mượn xe, ông X không biết H sử dụng xe trên làm phương tiện để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Tuy nhiên, hiện chị Nguyễn Thị K không có mặt tại địa phương nên cơ quan điều tra chưa làm việc được. Hội đồng xét xử xét thấy nên giao cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố P tiếp tục tạm giữ chiếc xe nêu trên để điều tra làm rõ chủ sở hữu.

[5] Đối với bà Ngô Thị K đã mua giàn giáo của Nguyễn H nhưng không biết đây là tài sản do trộm cắp mà có, nên cơ quan điều tra không xử lý hình sự là có căn cứ.

Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn H phạm tội "trộm cắp tài sản”.

n cứ vào: Điểm b khoản 1 điều 173, điểm h, s khoản 1 điều 51 Bộ luật Hình sự 2015.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn H 06 (sáu) tháng tù.

Áp dụng: Khoản 5 điều 65, điều 56 Bộ luật Hình sự 2015. Tổng hợp với hình phạt 06 tháng tù theo Bản án hình sự sơ thẩm số 11/2019/HSST ngày 09 tháng 7 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện NH (tỉnh N). Buộc bị cáo Nguyễn H chấp hành hình phạt chung là 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 18 tháng 11 năm 2019 và được trừ vào thời gian tạm giữ là 06 ngày (từ ngày 30 tháng 3 năm 2019 đến ngày 05 tháng 4 năm 2019).

Giao cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố P tiếp tục quản lý 01 xe mô tô hiệu Y Sirius màu xanh đen, biển kiểm soát 85D1- 211.xx, số máy 5C6J- 108xxx, số khung J0EY- 108xxx để tiếp tục điều tra làm rõ chủ sở hữu.

Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai, sơ thẩm, có mặt bị cáo. Quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với người bị hại và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2020/HS-ST ngày 18/02/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:10/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về