Bản án 10/2020/HS-ST ngày 17/03/2020 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN LẠC, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 10/2020/HS-ST NGÀY 17/03/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 3 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 03/2020/TLST-HS ngày 22 tháng 01 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 07/2020/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 02 năm 2020, đối với bị cáo:

Đỗ Đình Th, sinh ngày 05/10/1977, tại xã LH, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc; nơi cư trú: Thôn Hòa Loan, xã LH, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Đình G (đã chết) và bà Nguyễn Thị V (đã chết); vợ, con: Chưa có; tiền sự: Không; tiền án: 01 tiền án. Cụ thể: Tại Bản án số 84/2010/HSST ngày 19/11/2010, Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt 02 năm tù về tội “Đánh bạc”; Bản án số 32/2011/HS-ST ngày 24/02/2011, Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Bản án số 15/2011/HSPT ngày 22/3/2011, Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Bản án số 15/2011/HSST ngày 13/4/2011, Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Bản án số 52/2011/HSPT ngày 30/5/2011, Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp hình phạt của 05 bản án này buộc bị cáo pHchấp hành hình phạt chung là 12 năm tù. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 27/4/2019;

Về nhân thân: Bản án số 97/PT ngày 31/7/1995, Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phú (cũ) xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Bản án số 12/HSST ngày 06/4/2001, Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Bản án số 13/HSST ngày 06/4/2004, Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Bản án số 29/2007/HSST ngày 04/4/2007, Tòa án nhân dân huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”;

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 07 tháng 10 năm 2019 cho đến nay (có mặt).

Bị hại: - Chị Lê Thị Oanh, sinh năm 1997 (vắng mặt).

- Anh Kim Đình T, sinh năm 1997 (vắng mặt).

Đu có địa chỉ: Thôn Y, xã Đ, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc.

Người làm chứng:

- Ông Tô Văn Th1 (tên gọi khác: K), sinh năm 1947 (vắng mặt).

- Bà Nguyễn Thị X, sinh năm 1945 (vắng mặt).

- Ông Kim Đình L, sinh năm 1971 (vắng mặt).

- Cháu Nguyễn Thị Bích Hải, sinh năm 2011 (vắng mặt).

Người đại diện hợp pháp của cháu Hải: Anh Nguyễn Văn Tr, sinh năm 1982 (vắng mặt).

Đu có địa chỉ: Thôn Y, xã Đ, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 21/9/2019, Đỗ Đình Th một mình đi bộ đến địa phận xã Đ, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc. Khi đi qua cổng gia đình chị Lê Thị O ở thôn Y, xã Đ, Th quan sát thấy xe mô tô biển kiểm soát 88L1 - 396.89 của chị O dựng trong sân, chìa vẫn cắm ở ổ khóa điện nên nảy sinh ý định trộm cắp. Th mở cổng đi vào bên trong (lúc này cổng chỉ khép không khóa) dắt chiếc xe mô tô này ra phía đầu ngõ được khoảng 10 mét thì dừng lại mở khóa điện. Do xe mô tô lắp còi báo động phát ra tiếng kêu to, sợ bị mọi người phát hiện nên Th bỏ lại xe trên đường rồi chạy vào trong ngõ nhà ông Tô Văn Th1(tên gọi khác là “K”) ở gần đó. Thấy cổng nhà ông Th1 khóa, Th trèo lên nóc cổng rồi nhảy vào bên trong phía góc bên trái dẫn đến bị thương tích ở chân, tay. Cùng lúc này, bà Nguyễn Thị X (là vợ ông Thế) nghe tiếng chó sủa nên gọi ông Th1 ra xem có chuyện gì. Khi ông Th1, bà X đi ra cổng, Th van xin ông Th1, bà X cứu giúp mình, đừng mở cổng cho mọi người vào và hứa sẽ trả ơn sau. Ông Th1 nghe thấy tiếng còi báo động nên chạy ra phía đầu ngõ thì phát hiện xe mô tô biển kiểm soát 88L1 - 396.89 đang dựng trên đường dân sinh, cách cổng nhà chị O khoảng 10 mét. Ông Th1 tắt khóa điện và hỏi to xe của ai thì ông Kim Đình L (là bố chồng chị O) cùng anh Kim Đình T (là chồng chị O) chạy ra xác nhận xe của gia đình để trong sân bị kẻ gian dắt ra đó. Ông Th1 cũng xác định Th chính là đối tượng đã trộm cắp xe mô tô của gia đình chị O và sợ bị phát hiện nên trèo tường trốn vào trong nhà ông. Khi ông Th1 quay về nhà thấy Th đang trốn trong tủ gỗ kê tại gian buồng bên phải theo hướng từ ngoài nhìn vào. Ông Th1hỏi về nhân thân, lai lịch thì Th khai tên là Thông, 34 tuổi, nhà ở xã Bồ Sao, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc. Ông Th1 sợ Th bị những người dân ở đó bức xúc đánh đập nên khóa cổng lại. Một lúc sau, Công an xã Đ, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc nắm được thông tin đã báo cáo Công an huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc giải quyết vụ việc theo quy định.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc đã tiến hành khám nghiệm hiện trường và thu giữ của chị Lê Thị O 01 xe mô tô biển kiểm soát 88L1 - 396.89 nhãn hiệu Honda Lead; thu giữ của Th 01 áo sơ mi dài tay màu nâu - xám, 01 quần dài vải màu đen, 01 mũ cối màu X (không có chóp), 01 đôi giày vải màu X - đen và số tiền 81.000đồng để điều tra, xử lý theo quy định.

Tại kết luận định giá tài sản số 50/2019/KL-ĐG ngày 23/9/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe Lead, biển kiểm soát 88L1 - 396.89 của chị Lê Thị O trị giá 30.000.000đồng.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Đỗ Đình Th không thừa nhận hành vi phạm tội của bản thân như nêu trên, bị cáo khai: Do ông K là bạn ông Đỗ Đình G, sinh năm 1942 (là bố đẻ Th, đã chết năm 2016), ông K đã từng đến nhà Th chơi 02 lần (vào năm 2008, 2009) và Th cũng đã từng đến nhà ông K chơi 01 lần.

Trưa ngày 21/9/2019, Th bắt xe khách tới ngã ba Kiệu thuộc xã Chấn Hưng, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc rồi đi bộ đến nhà thăm ông K. Tới nơi, thấy cổng khóa, Th gọi 3, 4 lần nhưng không ai ra mở cửa nên trèo tường vào bên trong và bị ngã dẫn đến bị thương tích. Th không biết và không liên quan đến việc trộm cắp xe mô tô biển kiểm soát 88L1 - 396.89 của chị Lê Thị O ngày 21/9/2019.

Ti Cáo trạng số 08/CT-VKS ngày 21/01/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc đã truy tố bị cáo Đỗ Đình Th về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Ti phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với các bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung Cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Đỗ Đình Th phạm tội “Trộm cắp tài sản”; áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Đỗ Đình Th từ 24 tháng đến 27 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 07 tháng 10 năm 2019; về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đối với 01 áo sơ mi, 01 quần vải dài màu đen, 01 mũ cối màu X, 01 đôi giày vải (có đặc điểm như biên bản giao nhận tài liệu, đồ vật) cần tịch thu tiêu hủy; đối với 01 phần đất nung màu đỏ và kính vỡ không còn giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu hủy; đối với 81.000đồng không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo nhưng cần tạm giữ để bảo đảm thi hành án.

Bị cáo Đỗ Đình Th không thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự tố tụng của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2]. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Đỗ Đình Th không thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã truy tố. Tuy nhiên căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đủ căn cứ xác định: Th không biết tên thật của ông K là Th1, ông Th1 khẳng định không quen biết Th và người nào là Đỗ Đình G, sinh năm 1942 ở thôn Hòa Loan, xã LH, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc. Ông Th1 chưa từng gặp mặt hay đến nhà Th chơi lần nào và ngược lại. Khi đến nhà ông Th1, Th không hề gọi cổng mà tự ý trèo vào bên trong dẫn đến bị ngã và có thương tích. Khi ông Th1 tra hỏi, Th khai tên là Thông 34 tuổi (là tên và tuổi của em trai Th). Bản thân Th liên tục van xin, nhờ ông Th1, bà X cứu giúp mình rồi trốn vào trong tủ gỗ của gia đình ông Th1, bà X vì sợ bị những người dân vây đánh. Ngoài ra nhân chứng trực tiếp là cháu Nguyễn Thị Bích H xác nhận: Khoảng hơn 13 giờ ngày 21/9/2019, cháu H đang chơi trên ban công tầng 02 của gia đình (đối diện nhà ông Kim Đình L) thì nhìn thấy 01 người đàn ông lạ mặt, dáng người to béo, đầu đội mũ cối màu X, mặc áo dài tay màu xám đi bộ đến trước cổng nhà ông L. Người đàn ông này mở cổng đi vào bên trong sân (thời điểm này cổng không khóa, gia đình ông L đang ngủ trưa) đến gần vị trí dựng chiếc xe Lead màu vàng sữa (gần 01 xe mô tô nhãn hiệu Dream và 01 xe ô tô con) và dắt chiếc xe Lead lùi ra cổng rồi đi về phía đầu ngõ nhà ông Th1.

Khi dắt được khoảng hơn 10 mét, người đàn ông này mở khóa điện thì còi báo động liên tục kêu to “Tít, tít”. Người đàn ông này hoảng sợ bỏ xe lại chạy vào trong ngõ nhà ông Th1, bà X.

Ngày 05/10/2019, Cơ quan điều tra đã tiến hành thực nghiệm điều tra, kết quả xác định: Từ mặt sàn tầng 02 của gia đình cháu H xuống mặt đất bằng 3,85 mét, lan can ban công tầng 02 cao 0,86 mét và cháu H cao 1,27 mét. Từ vị trí cháu H đứng trên ban công tầng 02 đến vị trí Th dắt xe mô tô của chị O ra ngoài đường khoảng 15 mét, tầm nhìn không bị che chắn, thời tiết ngày xảy ra sự việc trời sáng, nắng nên cháu H hoàn toàn quan sát rõ tổng thể mọi sự việc. Cơ quan điều tra đã cho cháu H nhận dạng, cháu xác định chính xác Đỗ Đình Th là người đàn ông đã trộm cắp chiếc xe mô tô biển kiểm soát 88L1 - 396.89 của chị Lê Thị O ngày 21/9/2019.

Do vậy có đủ chứng cứ khách quan để kết luận: Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 21/9/2019, lợi dụng sơ hở Đỗ Đình Th đột nhập vào gia đình ông Kim Đình L ở thôn Y, xã Đ, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc trộm cắp của chị Lê Thị O (là con dâu ông L) 01 xe mô tô biển kiểm soát 88L1 - 396.89 nhãn hiệu Honda, loại xe Lead, theo kết luận định giá bằng 30.000.000đồng thì bị phát hiện, bắt giữ. Hành vi của bị cáo Đỗ Đình Th đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Điều 173 quy định:

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000đồng đến dưới 50.000.000đồng… thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

Xét tính chất vụ án là ít nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự trị an và an toàn xã hội, gây bất bình trong nhân dân. Hành vi của bị cáo xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Vì vậy cần phải xử phạt nghiêm.

[3]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo:

Bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào được quy định tại Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xét nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Bị cáo Th là người có nhân thân xấu. Năm 1995, Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phú (cũ) xử phạt Th 12 tháng tù; năm 2001, Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt Th 18 tháng tù. Năm 2004, Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt Th 24 tháng tù; năm 2007, Tòa án nhân dân huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt Th 09 tháng tù đều về tội “Trộm cắp tài sản”;

Bị cáo Đỗ Đình Th không có tiền sự. Về tiền án: Bị cáo có 01 tiền án. Cụ thể:

- Bản án số 84/2010/HSST ngày 19/11/2010, Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt Th 02 năm tù về tội “Đánh bạc” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 248 Bộ luật Hình sự năm 1999 (số tiền dùng vào việc đánh bạc là 3.700.000đồng);

- Bản án số 32/2011/HS-ST ngày 24/02/2011, Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ xử phạt Th 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự 1999;

- Bản án số 15/2011/HSPT ngày 22/3/2011, Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt Th 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự 1999 (bị áp dụng tình tiết tăng nặng là “Phạm tội nhiều lần” theo điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự 1999).

- Bản án số 15/2011/HSST ngày 13/4/2011, Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt Th 03 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm c, e khoản 2 Điều 138 Bộ luật Hình sự 1999 (áp dụng tình tiết tăng nặng là “Phạm tội nhiều lần” theo điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự 1999). Tuy nhiên Bản án này, Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc căn cứ vào nhân thân của bị cáo đã có 03 tiền án để áp dụng tình tiết định khung tăng nặng “Tái phạm nguy hiểm” là chưa chính xác vì tài sản bị cáo chiếm đoạt ở các lần phạm tội này đều dưới 500.000đồng. Cụ thể như sau:

+ Bản án số 12/HSST ngày 06/4/2001, Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt Th 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự 1999 (trộm cắp xe đạp trị giá 300.000đồng).

+ Bản án số 13/HSST ngày 06/4/2004, Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt Th 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự 1999 (trộm cắp xe đạp trị giá 250.000đồng).

+ Bản án số 29/2007/HSST ngày 04/4/2007, Tòa án nhân dân huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt Đỗ Đình Th 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự 1999 (trộm cắp chiếc đồng hồ trị giá 10.000đồng).

- Bản án số 52/2011/HSPT ngày 30/5/2011, Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt Th 02 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự 1999 (bị áp dụng tình tiết tăng nặng là “Phạm tội nhiều lần” theo điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự 1999).

Tng hợp 05 bản án trên buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 12 năm tù được trừ thời gian đã chấp hành tại Bản án số 84/2010/HSST ngày 19/11/2010 của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc là 06 tháng 25 ngày, còn phải chấp hành là 11 năm 05 tháng 05 ngày, thời hạn tù tính từ ngày 25/02/2011. Th chấp hành xong án phạt tù ngày 27/4/2019, do đó xác định bị cáo chỉ có 01 tiền án và lần phạm tội ngày 21/9/2019 không xác định là “Tái phạm nguy hiểm” mà xác định là “Tái phạm”. Do đó, bị cáo Đỗ Đình Th phải chịu một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tuy nhiên, bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân, muốn có tiền để sử dụng vào mục đích cá nhân bằng cách trộm cắp tài sản của người khác. Tại phiên tòa bị cáo khai báo không thành khẩn khai báo mà khai báo quanh co nhằm chối tội.

Hi đồng xét xử xét thấy cần phải lên một mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo, có như vậy mới đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa tội phạm.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có tài sản, không có thu nhập ổn định nên không áp dụng khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để phạt tiền đối với bị cáo.

[5]. Về xử lý vật chứng:

Đi với 01 xe mô tô biển kiểm soát 88L1 - 396.89 là tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của chị Lê Thị O. Ngày 07/01/2020, cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại cho chị O là đúng chủ sở hữu. Đến nay, chị O đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu, đề nghị gì nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Đi với 01 áo sơ mi, 01 quần dài màu đen, 01 mũ cối, 01 đôi giày vải (có đặc điểm như biên bản giao nhận tài liệu, đồ vật) cần tịch thu tiêu hủy.

Đi với 01 phần đất nung màu đỏ và kính vỡ không còn giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu hủy.

Đi với 81.000đồng không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo nhưng cần tạm giữ để bảo đảm thi hành án.

[6]. Về án phí: Bị cáo Đỗ Đình Th phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc đối với bị cáo là có căn cứ đúng pháp luật sẽ được Hội đồng xét xử xem xét quyết định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đỗ Đình Th phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt:

Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt Đỗ Đình Th 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam (ngày 07/10/2019).

3. Về vật chứng:

Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tch thu tiêu hủy 01 áo sơ mi dài tay màu nâu - xám, 01 quần bằng vải màu đen, 01 mũ cối màu X (không có chóp), 01 đôi giày vải màu X – đen, 01 phần đất nung màu đỏ và kính vỡ.

Trả lại cho bị cáo Đỗ Đình Th 81.000đồng nhưng cần tạm giữ để bảo đảm thi hành án.

(đặc điểm vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 11/02/2020).

4. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 về án phí, lệ phí toà án, bị cáo Đỗ Đình Th phải nộp 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáoCăn cứ Điều 331 Bộ luật Tố tụng hình sự; Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

355
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2020/HS-ST ngày 17/03/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:10/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Lạc - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về