Bản án 10/2020/HS-ST ngày 16/01/2020 về tội vận chuyển hàng cấm

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIAO THỦY, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 10/2020/HS-ST NGÀY 16/01/2020 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM

Ngày 16 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 02/2020/TLST- HS ngày 03 tháng 01năm 2020, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số:01/2020/QĐXXST- HS ngày 03 tháng 01 năm 2020 đối với bị cáo:

Phạm Văn Ph; sinh ngày 03/3/1980, tại huyện huyện GT, tỉnh NĐ; nơi cư trú: Xóm 1 xã HT, huyện GT, tỉnh NĐ; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 2/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phạm Văn Nh; sinh năm 1956 và bà Nguyễn Thị D; sinh năm 1958; vợ là Phn Thị Y, sinh năm 1981; có 01 con sinh năm 2004; tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: Năm 2007, bị Tòa án nhân dân huyện Giao Thủy xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Năm 2014, bị Tòa án nhân dân huyện Giao Thủy xử phạt 30 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, ra trại ngày 03/6/2016; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày20/12/2019 đến nay; hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định; “có mặt”.

Người làm chứng:

Ông Đinh Xuân C; sinh năm 1958; nơi cư trú: Xóm 3 QT xã GT1, huyện GT, tỉnh NĐ; “vắng mặt”.

Anh Đỗ Quang H; sinh năm 1969; nơi cư trú: Xóm 5 xã HT, huyện GT, tỉnh NĐ; “vắng mặt”.

Chị Phn Thị Y; sinh năm 1981; nơi cư trú: Xóm 1 xã HT, huyện GT, tỉnh NĐ; “vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 10 giờ 50 phút ngày 20/12/2019, tổ công tác Đội cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế, ma túy Công an huyện Giao Thủy làm nhiệm vụ tại khu vực xóm 3 Quyết Thắng xã Giao Tiến phát hiện Phạm Văn Ph điều khiển xe máy BKS 18S1-7642, có biểu hiện nghi vấn. Tổ công tác đã yêu cầu Ph dừng xe để kiểm tra. Quá trình kiểm tra, Ph đã tự giác giao nộp 01 ba lô, bên trong có 06 vật hình hộp, có cùng kích thước 14,5x14x14,5 cm bên trong mỗi hộp chứa 36 ống hình trụ liên kết với nhau. Ph khai nhận 06 hộp trên là pháo. Ph được một người thanh niên tên là Đức ở xã Giao Nhân thuê Ph chở từ cầu vòm xã Giao Nhân đến cầu Đông Lạnh, xã Xuân Vinh. Tổ công tác đã lập bản bắt giữ người có hành vi phạm pháp quả tang, thu giữ 06 hộp pháo, được niêm phong ký hiệu A. Ngoài ra, còn thu giữ của Ph 01 xe máy BKS 18S1-7642 và số tiền 500.000 đồng đưa về Công an huyện Giao Thủy.

Ngày 20/12/2019, Cơ quan CSĐT Công an huyện Giao Thủy đã đưa toàn bộ số pháo thu giữ của Phạm Văn Ph đi giám định.

Tại bản kết luận giám định số 1196/GĐKTHS ngày 21/12/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: “Mẫu ký hiệu A là pháo, có đặc tính của pháo nổ (chứa thuốc pháo và khi đốt có gây tiếng nổ), tổng khối lượng là 8,334 kg”.

Về kết quả thu giữ, xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra đã thu giữ 01 chiếc xe máy BKS 18S1 – 7642 là tài sản hợp pháp của chị Phn Thị Y (là vợ của Ph). Khi Ph sử dụng chiếc xe để vận chuyển pháo thuê, chị Y không biết nên cơ quan điều tra đã trả lại xe cho chị Y.

Về nguồn gốc số pháo thu giữ của Ph, Ph khai nhận là do người tên là Đức ở xã Giao Nhân thuê chở từ xã Giao Nhân đến cầu Đông Lạnh. Quá trình điều tra, không xác định được người tên Đức là ai ở đâu nên không đủ căn cứ để kết luận.

Tại Bản cáo trạng số:07/CT - VKS ngày 02/01/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy truy tố bị cáo Phạm Văn Phvề tội “Vận chuyển hàng cấm” theo khoản 1 Điều 191 Bộ luật hình sự.

Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên bản cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phạm Văn Ph phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”. Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 191; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự: xử phạt bị cáo Phạm Văn Phtừ 12 tháng đến 15 tháng tù.Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu cho tiêu hủy toàn bộ số pháo đựng trong 01 thùng bìa cattong hoàn trả mẫu vật sau giám định và 01 chiếc ba lô; Tịch thu số tiền 500.000 đồng thu giữ của Ph sung Ngân sách Nhà nước. Về hình phạt bổ sung: không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

Tại phiên tòa,bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội vàkhông tranh luận gì. Trong lời nói sau cùng, bị cáo tỏ rõ ăn năn hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt và miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Giao Thủy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì, do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác của vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, kết luận giám định. Như vậy, có đủ cơ sở khẳng định: Ngày 20/12/2019, Phạm Văn Ph đã có hành vi vận chuyển thuê 06 hộp pháo dàn, loại dàn có 36 quả (có đặc tính pháo nổ, chứa thuốc pháo và khi đốt gây tiếng nổ), tổng khối lượng 8,334 kg cho một người đàn ông không rõ tên tuổi địa chỉ cụ thể từ xã Giao nhân đến cầu Đông Lạnh và nhận 500.000 đồng tiền công. Khi Ph chở số pháo trên đến khu vực xóm 3 Quyết Tiến xã Giao Tiến thì bị tổ công tác Đội cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế, ma túy huyện Giao Thủy phát hiện bắt quả tang. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Vận chuyển hàng cấm”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 191 của Bộ luật hình sự. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy truy tố Phạm Văn Ph về tội “Vận chuyển hàng cấm” theo quy định tại khoản 1 Điều 191 của Bộ luật hình sự là hoàn toàn có căn cứ pháp luật

[3] Về tính nguy hiểm của hành vi: Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ độc quyền của Nhà nước về quản lý đối với các loại hàng hóa kinh doanh có điều kiện cũng như xâm phạm trật tự an toàn công cộng, gây ảnh hưởng xấu tới trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo có đủ khả năng nhận thức vận chuyển pháo nổ là vi phạm pháp luật nhưng vì ham tiền công nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện, do đó cần có hình phạt tương xứng đối với bị cáo.

[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ rõ ăn năn hối cải do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt chính:Hội đồng xét xử thấy cần xử phạt bị cáo bằng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, có như vậy mới có tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo thành người có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời đáp ứng công tác phòng chống tội phạm nói chung.

[6]Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 4 Điều 191 Bộ luật hình sự: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng…”. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấybị cáo là người nghiện ma túy, điều kiện kinh tế khó khăn; vì vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng:

[7.1] Đối với số pháo đựng trong 01 thùng bìa cattong hoàn trả mẫu vật sau giám định cùng 01 chiếc ba lô đựng pháocần tịch thu cho tiêu hủy.

[7.2] Đối với số tiền 500.000 đồng thu giữ của Phạm Văn Ph, là tiền công vận chuyển pháo nên cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước.

[8] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 191; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Tuyên bố bị cáo Phạm Văn Ph phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”; xử phạt: Bị cáo Phạm Văn Ph 01(một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 20/12/2019.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu sung ngân sách Nhà nước số tiền 500.000 đồng thu giữ của Phạm Văn Ph; tịch thu cho tiêu hủy toàn bộ số pháo nổ đựng trong 01 thùng bìa cattong hoàn trả mẫu vật sau giám định và 01 chiếc ba lô (Chi tiết theo biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 03/01/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định).

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Phạm Văn Ph phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự:Bị cáo Phạm Văn Ph có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2020/HS-ST ngày 16/01/2020 về tội vận chuyển hàng cấm

Số hiệu:10/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giao Thủy - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về