Bản án 10/2020/HS-ST ngày 16/01/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 10/2020/HS-ST NGÀY 16/01/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 202/2019/TLST-HS ngày 25 tháng 12 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2020/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 01 năm 2020 đối với bị cáo:

Bơ Nah Rơ Ya Ka B, sinh ngày 05 tháng 7 năm 2001; nơi sinh: Lâm Đồng; nơi ĐKNKTT và cư trú: Thôn T H, xã T H, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 4/12; dân tộc: Kơ Ho; giới tính: Nam; tôn giáo: Tin lành; quốc tịch: Việt Nam; con ông: K’ T, con bà: Ma Th; gia đình có 06 anh chị em, lớn nhất sinh năm 1986, nhỏ nhất bị cáo; vợ: K Să Ro B; con: chưa; tiền án, tiền sự: không; Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam. Có mặt

- Bị hại: Ông Ka Đun Prong Th, sinh năm 1995 Trú tại: Thôn T H, xã T H, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 23 giờ 50 phút ngày 10/09/2019, sau khi nhậu ở thôn T H, xã T H, huyện Đ bị cáo Bơ Nah Rơ Ya Ka B đi bộ về nhà mình. Khi đi qua nhà anh Ka Đun Prong Th thấy có 03 chiếc xe máy dựng bên hông nhà nên Ka B nảy sinh ý định trộm cắp xe máy về sử dụng. Lợi dụng trời tối không có người để ý Ka B lén lút đi đến chiếc xe YAMAHA EXCITER màu trắng, biển số: 49E1- 304.34 đấu dây điện để mở khóa, sau đó dắt bộ ra đường bê tông rồi trèo lên xe điều khiển xe về nhà vợ ở thôn Tân Hạ, xã Đ Q, huyện Đ. Ngày 11/09/2019 Ka B sử dụng đồ nghề tháo dàn nhựa và biển số xe ra rồi mang đi cất giấu với mục đích để bị hại không phát hiện ra chiếc xe bị mất trộm. Sau đó Ka B điều khiển chiếc xe trộm cắp được đi chở củi, trên đường đi Ka B ghé vào đổ xăng thì phát hiện trong cốp xe có 500.000đ (Năm trăm nghàn đồng) nên đã dùng số tiền này để đổ xăng và tiêu xài cá nhân. Khoảng 23 giờ ngày 11/9/2019 Công an xã T H phối hợp cùng Công an xã Đ Q huyện Đ phát hiện và Th giữ chiếc xe Ka B trộm cắp tại nhà bà Ka Sã K’ D là mẹ vợ của bị cáo.

Tại Kết luận định giá tài sản số 136/KL – HĐĐG ngày 16/09/2019 của Hội đồng định giá huyện Đ đã xác định chiếc xe YAMAHA EXCITER mà bị cáo Ka B chiếm đoạt có giá trị là 16.000.000đ.

Tng giá trị tài sản mà bị cáo Ka B chiếm đoạt trong vụ án này là 16.500.000đ.

Về vật chứng:

- 01 chiếc xe YAMAHA EXCITER sau khi định giá Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu là anh Ka Đun Prong Th, anh Th đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì.

- Đối với số tiền 500.000đ bị cáo Ka B lấy trong cốp xe để tiêu xài cá nhân hết và đã trả lại số tiền trên cho bị hại nên cơ quan điều tra không tiến hành Th giữ.

Quá trình điều tra bị cáo Ka B đã thành khẩn khai báo, phạm tội lần đầu, đã khắc phục hậu quả nên cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 51 Bộ luật Hình sự.

o trạng số 10/CT-VKS ngày 17 tháng 12 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ đã truy tố bị cáo Bơ Nah Rơ Ya Ka B về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Ti phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên cáo trạng truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo Bơ Nah Rơ Ya Ka B từ 06 đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 đến 18 tháng.

Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Ý kiến của bị hại: Tại phiên tòa bị hại anh Ka Đun Prong Th xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét về hoạt động điều tra, truy tố của điều tra viên, kiểm sát viên thì thấy rằng trong quá trình điều tra, truy tố, điều tra viên, kiểm sát viên đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, không ai có ý kiến thắc mắc hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng. Như vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng thực hiện đúng thẩm quyền, đúng trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa bị cáo Bơ Nah Rơ Ya Ka B đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, Cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố và các chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định: Vào khoảng 23 giờ 50 phút ngày 10/09/2019, sau khi nhậu về bị cáo Ka B đi qua nhà anh Ka Đun Prong Th thấy có 03 chiếc xe máy dựng bên hông nhà nên Ka B nảy sinh ý định trộm cắp xe máy về sử dụng. Lợi dụng trời tối không có người để ý bị cáo lén lút đi đến chiếc xe YAMAHA EXCITER màu trắng, biển số: 49E1-304.34 đấu dây điện để mở khóa, sau đó dắt bộ ra đường bê tông rồi trèo lên xe điều khiển xe về nhà vợ ở thôn Tân Hạ, xã Đa Quyn, huyện Đ. Sau khi lấy trộm xe máy bị cáo tháo dàn nhựa và biển số xe ra rồi mang đi cất giấu với mục đích để bị hại không nhận ra chiếc xe bị mất trộm và phát hiện trong cốp xe có 500.000đ bị cáo đã lấy tiền để đổ xăng và tiêu xài. Đến khoảng 23 giờ ngày 11/9/2019 Công an xã T H phối hợp cùng Công an xã Đa Quyn huyện Đ phát hiện và Th giữ chiếc xe bị cáo Ka B đã trộm cắp tại nhà bà Ka Sã K’ Diêu là mẹ vợ của bị cáo.

Tại Kết luận định giá tài sản số 136/KL – HĐĐG ngày 16/09/2019 của Hội đồng định giá huyện Đ đã xác định chiếc xe YAMAHA EXCITER mà bị cáo đã chiếm đoạt có giá trị là 16.000.000đ. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Bơ Nah Rơ Ya Ka B đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự 2015.

[3] Xét tính chất mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo biết rõ tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật thừa nhận và bảo vệ, nhưng do muốn có phương tiện để đi lại nên bị cáo vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội, hành vi của bị cáo làm ảnh hưởng đến trật tự, trị an, an toàn xã hội, gây hoang mang, lo lắng trong quần chúng nhân dân.

[4] Xem xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo đã tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả cho người bị hại, tại phiên tòa bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho bị cáo khi lượng hình.

[5] Từ những phân tích nhận định trên nhận định trên Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và có nơi cư trú rõ ràng nên không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự, cho bị cáo được hưởng án treo, giao bị cáo cho gia đình và chính quyền địa phương theo dõi, giáo dục cũng đủ tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[6] Về xử lý vật chứng: Chiếc xe mô tô hiệu YAMAHA EXCITER, biển kiểm soát 49E1-304.34 Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu là anh Ka Đun Prong Th là phù hợp nên Hội đồng xét xử không xem xét. [7] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại anh Ka Đun Prong Th đã nhận chiếc xe và số tiền 500.000đ. Tại phiên tòa anh Th không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Bơ Nah Rơ Ya Ka B phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự 2015.

Xử phạt: Bị cáo Bơ Nah Rơ Ya Ka B 09 (chín) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 (mười tám) tháng tính từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã T H, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng để giám sát, giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật này.

2. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức Th, miễn giảm, Th, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án. Buộc bị cáo Bơ Nah Rơ Ya Ka B phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2020/HS-ST ngày 16/01/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:10/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đơn Dương - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về