Bản án 10/2020/HNGĐ-ST ngày 28/07/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÔNG HÀ, TỈNH QUẢNG TRỊ

BẢN ÁN 10/2020/HNGĐ-ST NGÀY 28/07/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 28 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số 74/2020/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 5 năm 2020, về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 06 tháng 7 năm 2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Đinh Thị Thanh X, sinh năm: 1973;

Bị đơn: Anh Nguyễn Thế B, sinh năm: 1969;

Cùng địa chỉ: Số 23/1 CV, Khu phố A, phường ĐL, thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị.

Các đương sự có mặt đầy đủ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Ti đơn khởi kiện đề ngày 27/4/2020 và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Đinh Thị Thanh X trình bày:

Chị Đinh Thị Thanh X và anh Nguyễn Thế B đăng ký kết hôn ngày 16/9/2002 tại Ủy ban nhân dân Phường B, thị xã Đông Hà (nay là thành phố Đông Hà), tỉnh Quảng Trị trên cơ sở tình yêu tự nguyện của hai bên. Vợ chồng chung sống hạnh phúc cho đến giữa năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh B có tình trạng bạo lực gia đình và có lỡi lẽ xúc phạm chị X. Anh B có thái độ xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng của chị X, bất đồng về quan điểm sống, tính tình không hòa hợp. Chị X cho rằng tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung không thể kéo dài nên chị X yêu cầu Tòa án giải quyết cho Chị được ly hôn anh Nguyễn Thế B.

Về con chung: Vợ chồng chị X có 02 con chung là cháu Nguyễn Thế L, sinh ngày 12/9/2003 và cháu Nguyễn Thế H, sinh ngày 18/3/2010. Sau khi ly hôn chị X có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng hai cháu Thế L và Thế H. Yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con 3.000.000đ/tháng/hai cháu.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị Đinh Thị Thanh X không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ti bản trình bày ý kiến ngày 12/5/2020 và trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn anh Nguyễn Thế B trình bày: Anh Nguyễn Thế B thừa nhận ý kiến trình bày của chị X về việc đăng ký kết hôn, nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn, thực trạng tình cảm vợ chồng, con chung, tài sản chung là đúng. Nguyên nhân do chị X luyện tập pháp luân công, anh B không đồng ý nên hai vợ chồng đã xãy ra mâu thuẫn. Hiện tại, các con chung đang còn nhỏ, anh B không muốn các con lớn lên chịu sự chia rẽ của bố mẹ. Do đó, anh B không đồng ý ly hôn chị X, đề nghị Tòa án kiên trì hòa giải để vợ chồng quay lại với nhau để cùng nhau nuôi dưỡng chăm sóc các con chung. Anh B mong muốn đưa chị X trở về cuộc sống bình thường, không theo giáo phái Pháp luân công.

Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

- Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà thụ lý, giải quyết vụ án theo đơn khởi kiện của chị Đinh Thị Thanh X là đúng thẩm quyền.

- Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa tuân thủ đúng quy định Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa.

- Hôn nhân của vợ chồng anh B, chị X đã lâm vào tình trạng trầm trọng, không có khả năng cải thiện, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận cho chị Đinh Thị Thanh X ly hôn anh Nguyễn Thế B. Về con chung đề nghị Hội đồng xét xử giao cháu Nguyễn Thế H, sinh ngày 18/3/2010 cho anh Nguyễn Thế B trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giao cháu Nguyễn Thế L, sinh ngày 12/9/2003 cho chị Đinh Thị Thanh X trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung, nợ chung chị X, anh B không yêu cầu nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tòa án thụ lý giải quyết và xác định quan hệ tranh chấp “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” là đúng thủ tục tố tụng theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn anh Nguyễn Thế B hiện đang cư trú tại thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị nên thẩm quyền giải quyết thuộc Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị theo điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về hôn nhân: Chị Đinh Thị Thanh X và anh Nguyễn Thế B đăng ký kết hôn ngày 16/9/2002 tại Ủy ban nhân dân Phường B, thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị (Số đăng ký kết hôn: 109, quyển số: 01), như vậy quan hệ hôn nhân giữa chị X và anh B là hôn nhân hợp pháp. Quá trình giải quyết vụ án chị X trình bày sau khi kết hôn, vợ chồng anh chị chung sống hạnh phúc, đến giữa năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân, anh B có tình trạng bạo hành gia đình, xúc phạm chị X. Theo anh B, anh không đồng ý cho chị X tập luyện pháp luân công nên giữa vợ chồng thường xuyên bất đồng quan điểm sống, chứ không có mâu thuẫn gì trầm trọng.

Theo kết quả xác minh của Tòa án tại Khu phố trưởng và Chi hội phụ nữ nơi chị X và anh B sinh sống thì quá trình sinh sống tại địa phương vợ chồng chị X, anh B có phát sinh mâu thuẫn nhưng không rõ nguyên nhân, trường hợp anh B muốn vợ chồng đoàn tụ để nuôi dạy con cái thì đề nghị Tòa án kiên trì hòa giải để vợ chồng đoàn tụ.

Hi đồng xét xử xét thấy, quá trình giải quyết vụ án, anh B mong muốn được đoàn tụ nhưng không có giải pháp cụ thể để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Năm 2019, chị X đã gửi đơn khởi kiện đến Tòa án yêu cầu ly hôn anh B nhưng quá trình hòa giải chị X đã rút đơn khởi kiện. Nay chị X tiếp tục đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh B. Điều này chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa chị X và anh B đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể tiếp tục kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, cần áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình cần chấp nhận yêu cầu của chị Đinh Thị Thanh X được ly hôn anh Nguyễn Thế B.

[3] Về con chung: Vợ chồng chị Đinh Thị Thanh X và anh Nguyễn Thế B có 02 con chung, cháu Nguyễn Thế L, sinh ngày 12/9/2003 và cháu Nguyễn Thế H, sinh ngày 18/3/2010. Khi ly hôn chị X có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng hai cháu L và cháu H. Tại phiên tòa, anh B có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cháu Nguyễn Thế H, giao cháu Nguyễn Thế L cho chị Đinh Thị Thanh X trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Trong trường hợp mỗi người chăm sóc, nuôi dưỡng một con chung thì anh B, chị X không yêu cầu phải cấp dưỡng nuôi con.

Hi đồng xét xử xét thấy, nghĩa vụ của cha mẹ là phải trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên được quy định tại Điều 69 Luật Hôn nhân và gia đình. Chị Đinh Thị Thanh X và anh Nguyễn Thế B đều có đủ điều kiện cơ bản để chăm sóc, nuôi dưỡng các con chung, hai bên đều có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung. Do đó, cần giao mỗi người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng một con chung là phù hợp với quy định của pháp luật. Tại phiên tòa anh B cho rằng hiện tại các con chung của vợ chồng anh chị có thành tích học rất tốt, mục đích anh B muốn trở lại đoàn tụ để cho các con chung có điều kiện, ổn định tâm lý để học tập. Quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa chị X thừa nhận chị X có tham gia tu luyện giáo phái pháp luân công, nguyên đơn cho rằng đó là lý do khiến cuộc sống của vợ chồng phát sinh mâu thuẫn và anh B lo lắng việc chị X tham gia tu luyện ảnh hưởng đến việc chăm sóc con chung đặc biệt là cháu Nguyễn Thế H. Mặc dù cháu L và cháu H đều có nguyện vọng ở với mẹ, qua xem xét nguyện vọng của chị X và anh B, Hội đồng xét xử xét thấy ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về việc giải quyết con chung là phù hợp nên cần chấp nhận.

Vì vậy, cần áp dụng khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình giao cho chị Đinh Thị Thanh X trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Nguyễn Thế L, giao cho anh Nguyễn Thế B trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Nguyễn Thế H.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Đinh Thị Thanh X, anh Nguyễn Thế B không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Chị Đinh Thị Thanh X và anh Nguyễn Thế B không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Chị Đinh Thị Thanh X phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, khoản 2 Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Đinh Thị Thanh X và anh Nguyễn Thế B.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Thế L, sinh ngày 12/9/2003 cho chị Đinh Thị Thanh X quyền trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; giao cháu Nguyễn Thế H, sinh ngày 18/3/2010 cho anh Nguyễn Thế B quyền trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Anh Nguyễn Thế B, chị Đinh Thị Thanh X có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở anh B, chị X thực hiện quyền này.

3. Về án phí: Chị Đinh Thị Thanh X phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số AA/2018/0000481 ngày 04 tháng 5 năm 2020 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Đông Hà (Chị X đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm).

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn chị Đinh Thị Thanh X, bị đơn anh Nguyễn Thế B có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2020/HNGĐ-ST ngày 28/07/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:10/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đông Hà - Quảng Trị
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về