Bản án 10/2020/HNGĐ-ST ngày 05/05/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH TƯỜNG, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 10/2020/HNGĐ-ST NGÀY 05/05/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 05 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 295/2019/TLST - HNGĐ ngày 06 tháng 12 năm 2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:10/2020/QĐXXST - HNGĐ ngày 21 tháng 4 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Nguyễn Văn C, sinh năm 1979 Địa chỉ: Số nhà 33 ngõ 23, V (nay đổi thành V), phường T, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc (có mặt)

2. Bị đơn: Chị Bùi Thị Phương H, sinh năm 1978 Địa chỉ: Thôn P, xã Y, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt và có đơn xin xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 14/11/2019 cùng các lời khai tiếp theo và tại phiên tòa nguyên đơn anh Nguyễn Văn C trình bày: Anh kết hôn với chị Bùi Thị Phương H ngày 08/01/2008 có đăng ký kết hôn tại UBND phường T, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc sau ngày cưới chị H về ở chung với gia đình anh. Tình cảm vợ chồng ban đầu bình thường được khoảng 01 năm thì sảy ra mâu thuẫn giữa mẹ anh và chị H, mỗi khi mâu thuẫn chị H lại đưa con về nhà bố mẹ đẻ ở anh có dàn xếp nhưng chị H không nghe từ đó vợ chồng sẩy ra mâu thuẫn bất đồng quan điểm sống vì tính tình không hợp. Năm 2009 chị H bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở anh đã nhiều lần đến động viên chị về đoàn tụ và yêu cầu chị xin lỗi gia đình anh nhưng chị H không đồng ý nên vợ chồng đã ly thân từ đó. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng không còn nên xin được ly hôn với chị H.

Bị đơn chị Bùi Thị Phương H vắng mặt, Toà án đã nhiều lần triệu tập nhưng chị H không đến làm việc, tại biên bản lấy lời khai ngày 05/3/2020 bà Đào Thị H1 (mẹ chị H) trình bày: Về quá trình kết hôn và chung sống giữa anh C và chị H như anh C trình bày là đúng, nguyên nhân anh chị sảy ra mâu thuẫn là vì anh C không chịu khó làm ăn dẫn đến vợ chồng có va chạm. Có lần anh còn đánh chị H tím mặt, khi chị H có thai cháu thứ hai thì anh chị mâu thuẫn căng thẳng nên chị H về nhà bà ở từ cuối năm 2009 đến nay. Hiện nay chị H đang làm ở thành phố Hà Nội địa chỉ cụ thể bà không biết, chị H thường xuyên liên lạc với bà bằng điện thoại, mỗi lần Toà án có giấy triệu tập bà đều thông báo cho chị H biết nhưng chị H nói không về được vì bị say xe ôtô. Quan điểm của chị H cũng đồng ý ly hôn với anh C và đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt (ngày 11/3/2020 chị H có đơn xin xử vắng mặt).

Về con chung anh Nguyễn Văn C khai: Anh và chị H có 02 con chung là cháu Nguyễn Hiền A sinh ngày 26/11/2008 và Nguyễn Ngọc Á sinh ngày 08/10/2010, hiện nay cháu A đang ở với anh C còn cháu Á đang ở với chị H, ly hôn anh C đề nghị giữ nguyên các cháu như hiện nay anh chị đang nuôi anh không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.

Bà Đào Thị H (mẹ chị H) khai: Anh C và chị H có hai con chung như anh C trình bày là đúng, nay bà đề nghị giữ nguyên việc nuôi con như hiện nay anh chị đang nuôi.

Về tài sản chung anh C khai: Vợ chồng không có tài sản gì nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản riêng anh C khai: Không có tài sản riêng và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về công sức anh C khai: Chị H có khoảng 01 năm ở chung với gia đình anh, trong thời gian này không cùng gia đình mua sắm kiến thiết gì nay anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về công nợ, đất canh tác anh C khai: Vợ chồng không có gì ly hôn anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 05/3/2020 bà Đào Thị H (mẹ chị H) khai: Anh C và chị H không có tài sản gì chung nhau, không nợ gì của ai, không có đất canh tác, công sức chị H không yêu cầu đề nghị gì.

Tại phiên tòa Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Tường phát biểu về việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thẩm phán, Thư ký Tòa án và việc chấp hành pháp luật của các đương sự đồng thời phát biểu quan điểm giải quyết vụ án đề nghị áp dụng Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.

Xử: Cho anh Nguyễn Văn C được ly hôn với chị Bùi Thị Phương H.

Về con chung: Giao cháu Nguyễn Hiền A cho anh C tiếp tục nuôi dưỡng và giao cháu Nguyễn Ngọc Á cho chị Bùi Thị Phương H tiếp tục nuôi dưỡng. Anh C chị H không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung, anh chị có quyền thăm nom con chung không ai được ngăn cản.

Về tài sản chung, tài sản riêng, công nợ, đất canh tác, công sức anh C không yêu cầu Toà án giải quyết. Án phí anh C phải chịu 300.000đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và sau khi nghe đương sự trình bày tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Về thủ tục tố tụng dân sự: Anh Nguyễn Văn C có đơn đề nghị Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Tường giải quyết việc ly hôn của anh và chị H theo quy định tại Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Tường.

Về sự vắng mặt của chị Bùi Thị Phương H, Tòa án đã tống đạt thông báo thụ lý vụ án cùng các giấy tờ hợp lệ cho chị H và gia đình chị H, gia đình đã nhận và thông báo cho chị H biết. Chị H có đơn xin xử vắng mặt vì vậy căn cứ vào Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đối với chị H là đúng trình tự pháp luật.

[1]. Về quan hệ hôn nhân: Năm 2008 anh Nguyễn Văn C kết hôn với chị Bùi Thị Phương H trên cơ sở tự nguyện, cưới có đăng ký kết hôn là cuộc hôn nhân hợp pháp. Thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc nên đã có 02 con chung, trong quá trình chung sống giữa mẹ chồng và nàng dâu sẩy ra mâu thuẫn sau đó đến hai vợ chồng, lẽ ra anh C là người giữa phải biết cách dàn xếp để tình cảm mẹ con, tình cảm vợ chồng ngày càng êm ấm nhưng anh không làm được điều đó. Mặt khác trong thời gian vợ chồng sống ly thân anh C yêu cầu chị H về xin lỗi để vợ chồng về đoàn tụ nhưng chị H không đồng ý nên vợ chồng đã sống ly thân từ cuối năm 2009 cho đến nay. Điều đó chứng tỏ rằng tình cảm vợ chồng thực sự không còn, đời sống chung không đạt được vì vậy căn cứ vào Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình giải quyết cho anh C được ly hôn với chị H là phù hợp.

[2]. Về con chung: Anh Nguyễn Văn C và chị Bùi Thị Phương H có 02 con chung là cháu A và cháu Á, hiện nay cháu Ađang ở với anh C còn cháu Á đang ở với chị H. Nay để đảm bảo việc chăm sóc, nuôi dưỡng và việc học hành của các con cũng như nguyện vọng của các con (cháu A xin ở với anh C cháu Á xin ở với chị H), nên cần giữ nguyên việc nuôi con của anh chị là phù hợp. Vì vậy cần áp dụng Điều 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình cho anh C tiếp tục nuôi dưỡng cháu A, chị H tiếp tục nuôi dưỡng cháu Ánh đến khi trưởng thành. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung, hai bên đều có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được ngăn cản.

[3]. Về tài sản chung, tài sản riêng, công sức, công nợ và đất canh tác: Anh C và chị H không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

Về án phí dân sự sơ thẩm: Anh Nguyễn Văn C là nguyên đơn nên phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

Về quyền kháng cáo bản án các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: Cho anh Nguyễn Văn C được ly hôn với chị Bùi Thị Phương H.

Về con chung: Anh Nguyễn Văn C tiếp tục nuôi dưỡng và giáo dục cháu Nguyễn Hiền Asinh ngày 26/11/2008, chị Bùi Thị Phương H tiếp nuôi dưỡng và giáo dục cháu Nguyễn Ngọc Á sinh ngày 08/10/2010. Anh C và chị H không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung, hai bên đều có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

Về tài sản chung, tài sản riêng, công sức, công nợ và đất canh tác: Anh Nguyễn Văn C, chị Bùi Thị Phương H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí ly hôn sơ thẩm: Anh Nguyễn Văn C phải chịu 300.000 đồng án phí sơ thẩm được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số AA/2017/0004789 ngày 06/12/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Vĩnh Tường, anh C đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Chị Bùi Thị Phương H vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày được giao bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

160
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2020/HNGĐ-ST ngày 05/05/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:10/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Tường - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về