Bản án 10/2019/HSST ngày 29/10/2019 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TỦA CHÙA, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 10/2019/HSST NGÀY 29/10/2019 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 29 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở TAND huyện T, tỉnh Điện Biên, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 11/2019/TLST-HS ngày 27/9/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2019/QĐXXST-HS ngày 17/10/2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Cà Thị H (tên gọi khác: không); sinh năm: 1996 tại huyện TG, tỉnh Điện Biên; Nơi ĐKHKTT và nơi cư trú: bản H, xã M, huyện TG, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: làm ruộng; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: không; Con ông Cà Văn T và bà Cà Thị L; chồng là Nguyễn Mạnh T- sinh năm 1993 và 01 con sinh ngày 29/11/2018; Tiền sự: Không. Tiền án: có 01 tiền án- năm 2017 bị TAND huyện TG xử phạt 09 tháng tù cho hưởng án treo về tội “đánh bạc”.

Tm giữ: không, tạm giam: không. Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.

- Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

+ Nguyễn Thị H - sinh năm 1992; Trú tại: Tổ dân phố Đ, thị trấn T, huyện T, tỉnh Điện Biên / Vắng mặt.

+ Bùi Ngọc D - sinh năm 1989; Trú tại: Tổ dân phố TC, thị trấn T, huyện T, tỉnh Điện Biên / Vắng mặt.

+ Trịnh Thị X - sinh năm 1979; Trú tại: Tổ dân phố C, thị trấn T, huyện T, tỉnh Điện Biên / Vắng mặt.

+ Cao Thị H1 - sinh năm 1989; Trú tại: Tổ dân phố TL, thị trấn T, huyện T, tỉnh Điện Biên / có mặt.

+ Sùng Thị H2 - sinh năm 1994; Trú tại: thôn H, xã Sính Phình, huyện T, tỉnh Điện Biên / Vắng mặt.

+ Bùi Đình V - sinh năm 1978; Trú tại: Tổ dân phố ĐK, thị trấn T, huyện T, tỉnh Điện Biên / Vắng mặt.

+ Lê Văn K - sinh năm 1982; Trú tại: Tổ dân phố TL, thị trấn T, huyện T, tỉnh Điện Biên / có mặt.

+ Điêu Thị Y - sinh năm 1975; Trú tại: Đội 1, xã M1, huyện T, tỉnh Điện Biên / có mặt.

+ Mào Thị Th - sinh năm 1986; Trú tại: bản M3, xã M, huyện TG, tỉnh Điện Biên / Vắng mặt.

+ Nguyễn Thị Ngọc Q - sinh năm 1985; Trú tại: bản ĐK, xã Q, huyện TG, tỉnh Điện Biên / Vắng mặt.

+ Lò Thị C - sinh năm 1976; Trú tại: tổ dân phố B, thị trấn T, huyện T, tỉnh Điện Biên / có mặt.

+ Trịnh Minh Q - sinh năm 1983; Trú tại: Tổ dân phố C, thị trấn T, huyện T, tỉnh Điện Biên / Vắng mặt.

- Người làm chứng:

+ Nguyễn Quốc D - sinh năm 1978; Trú tại: Tổ dân phố C, thị trấn T, huyện T, tỉnh Điện Biên / vắng mặt.

+ Nguyễn Mạnh H - sinh năm 1984; Trú tại: Tổ dân phố Đ, thị trấn T, huyện T, tỉnh Điện Biên / Vắng mặt.

+ Lò Thị Th - sinh năm 1994; Trú tại: bản C, xã MC, huyện TG, tỉnh Điện Biên / có mặt.

- Người phiên dịch: bà Lò Thị Tình – Sinh năm: 1980; Địa chỉ: Đội 3, xã M1, huyện T, tỉnh Điện Biên. / có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 12 giờ 30 phút ngày 10/3/2019 bị cáo Cà Thị H cùng Lò Thị Th đi bằng xe mô tô của bị cáo từ bản H, xã M, huyện TG lên thị trấn T, mục đích để mua sắm đồ dùng cho con nhỏ của bị cáo, khi đi Bị cáo có mang theo số tiền 1.950.000 đồng. Khi đến thị trấn T, bị cáo cùng Lò Thị Th vào quán nước của gia đình anh Lê Văn K để uống nước, trong lúc chờ pha nước anh K có hỏi bị cáo là “có giao lưu một tí không” (ngầm hiểu là có đánh bạc không), bị cáo đồng ý, sau đó bị cáo đi ra ngoài nghe điện thoại. Lúc đó quán anh K có đông người, K có rủ thêm một số người khác cùng vào chơi, sau khi mọi người nhất trí, K vào bên trong cắt vỏ bao thuốc lá hiệu VINATABA thành 04 hình tròn nhỏ có một mặt màu trắng, một mặt màu vàng làm 04 quân vị, chuẩn bị bát, đĩa, trải chiếu trong phòng nhỏ phía sau quầy bán hàng cùng mọi người đánh bạc, sau khi nói chuyện qua điện thoại xong bị cáo vào trong phòng thấy mọi người đang đánh bạc, bị cáo vào cùng chơi.

Từ khi bắt đầu đánh bạc đến khi kết thúc Bùi Đình V là người cầm “cái”, hình thức chơi như sau: mọi người ngồi dưới chiếu thành vòng tròn, sau đó người cầm “cái” cho 04 quân vị vào trong 01 chiếc đĩa sứ, rồi úp ngược chiếc bát sứ lên phía trên chiếc đĩa và tiến hành xóc lên xuống nhiều lần, làm cho 04 quân vị bên trong đảo lộn, sau đó, mỗi người chơi đặt cược tiền vào một trong hai bên, quy ước bên tay phải người cầm “cái” là cửa chẵn và tay trái là cửa lẻ. Đặt vào cửa chẵn nghĩa là đặt cược bốn quân vị bên trong đĩa, khi mở bát ra sẽ cùng có cùng màu vàng hoặc cùng màu trắng hoặc hai quân màu trắng và hai quân màu vàng; Còn đặt vào cửa lẻ nghĩa là đặt cược bốn quân vị bên trong đĩa, khi mở bát ra sẽ có 03 quân màu vàng, 01 quân màu trắng hoặc 03 quân trắng, 01 quân vàng; Sau khi mọi người đặt cược xong, người cầm “cái” sẽ tiến hành mở chiếc bát đang úp phía trên đĩa để xem màu của 04 quân vị bên trong. Nếu cửa chẵn thắng, cửa lẻ thua thì người chơi sẽ được cầm số tiền đã đặt cược về và người cầm “cái” sẽ trả tiền cho người chơi đặt cược ở cửa chẵn bằng với số tiền mà người chơi đó đã đặt cược, và người cầm cái nhận toàn bộ tiền mà người chơi đặt cược bên cửa lẻ là bên thua (Nếu cửa lẻ thắng thì ngược lại), quá trình đánh bạc mọi người chỉ chơi với người cầm cái, không chơi riêng.

Thời gian chơi bắt đầu từ khoảng 15 giờ 00 ngày 10/3/2019, số tiền mỗi người chơi đặt cược trong một ván từ 10.000 đồng đến 100.000 đồng. khi bắt đầu chơi có Lê Văn K, Bùi Đình V, Nguyễn Thị Ngọc Q, Bùi Ngọc D, Lò Thị C, Điêu Thị Y, Sùng Thị H2, Mào Thị Th; Sau khi nghe điện thoại xong bị cáo H vào chơi cùng. Đến khoảng 16 giờ 45 phút có Cao Thị H1, Nguyễn Thị H, Trịnh Thị X vào quán và tham gia đánh bạc cùng; Ngoài ra trong phòng còn có 03 người không chơi mà chỉ xem mọi người đánh bạc là Nguyễn Mạnh H, Lò Thị Th, Nguyễn Quốc D.

Các đối tượng tham gia đánh bạc đến 17 giờ cùng ngày thì Công an huyện T phát hiện, khi thấy cán bộ công an vào phòng các đối tượng chạy tán loạn trong nhà, Công an đã thu giữ tại chiếu bạc số tiền 400.000 đồng, 01 chiếc bát sứ nhãn hiệu Hải Dương, 01 chiếc đĩa sứ nhãn hiệu Long Phương, 02 cái chiếu cũ đã qua sử dụng, 03 quân vị hình tròn có một mặt màu trắng, một mặt màu vàng.

Kiểm tra, thu giữ số tiền trong người các đối tượng tham gia đánh bạc và người xem đánh bạc gồm: thu của Bùi Đình V số tiền 1.050.000 đồng; Thu của Cà Thị H 1.220.000 đồng; Thu của Lò Thị C số tiền 200.000 đồng; thu của Lò Thị Th số tiền 500.000 đồng; thu của Sùng Thị H2 số tiền 2.000 đồng; Thu của Cao Thị H1 số tiền 9.750.000 đồng; Thu của Nguyễn Thị H 50.000 đồng; Thu của Mào Thị Th số tiền 810.000 đồng; Thu của Điêu Thị Y số tiền 15.000 đồng; Thu của Nguyễn Mạnh H số tiền 70.000 đồng;

Ngoài ra cơ quan điều tra còn thu giữ số tiền 5.600.000 đồng tại quầy bán hàng của gia đình Lê Văn K, thu giữ các điện thoại di động và xe mô tô của các đối tượng tham gia đánh bạc và xem đánh bạc.

Quá trình điều tra đã làm rõ Lê Văn K là người khởi xướng, chuẩn bị công cụ (quân vị, bát, đĩa, chiếu) và tham gia đánh bạc; Bùi Đình V là người trực tiếp tham gia đánh bạc và là người cầm “cái” từ đầu đến cuối, tổng số người tham gia đánh bạc là 12 người gồm: Lê Văn K, Bùi Đình V, Nguyễn Thị Ngọc Q, Bùi Ngọc D, Lò Thị C, Điêu Thị Y, Sùng Thị H2, Mào Thị Th, Cà Thị H, Cao Thị H1, Nguyễn Thị H và Trịnh Thị X.

Số tiền sử dụng thể tham gia đánh bạc theo lời khai của những người tham gia đánh bạc gồm: Bị cáo Cà Thị H bỏ ra 950.000 đồng để đánh bạc, bị thua 730.000 đồng còn lại 220.000 đồng; Lê Văn K dùng 400.000 đồng để đánh bạc và thua hết; Bùi Đình V dùng 1.000.000 đồng để đánh bạc, chơi thắng 50.000 đồng và công an đã thu giữ 1.050.000 đồng; Cao Thị H1 dùng 250.000 đồng để đánh bạc và thua hết; Lò Thị C dùng 100.000 đồng để đánh bạc và thua hết; Điêu Thị Y dùng 30.000 đồng để đánh bạc và thua hết; Mào Thị Th dùng 30.000 đồng để đánh bạc và thua hết;

Sùng Thị H2 dùng 300.000 đồng để đánh bạc và thua hết; Nguyễn Thị Ngọc Q dùng 100.000 đồng để đánh bạc và thua hết; Bùi Ngọc D dùng 100.000 đồng để đánh bạc và thua hết; Trịnh Thị X dùng 30.000 đồng để đánh bạc và thua hết; Nguyễn Thị H dùng 20.000 đồng để đánh bạc và thua hết;

Trịnh Minh Q khai nhận số tiền 5.600.000 đồng thu giữ tại quầy hàng là của gia đình, mục đích để sử dụng chi tiêu và trả tiền hàng cho khách và không liên quan đến việc đánh bạc.

Ngày 29/8/2019 cơ quan điều tra đã tiến hành truy tìm 01 quân vị tại quán bán hàng nước gia đình Lê Văn K nơi bắt quả tang đánh bạc nhưng không tìm được.

Quá trình điều tra đã xác định tổng số tiền các đối tượng sử dụng để đánh bạc theo các lời khai là 3.310.000 đồng; Tuy nhiên số tiền thu giữ được trực tiếp tại chiếu bạc và số tiền trong người các đối tượng tham gia đánh bạc chứng minh được sử dụng để đánh bạc đã thu giữ được là 1.670.000 đồng, số tiền đối tượng đánh bạc khai khi chơi bị thua không làm rõ được.

Do tổng số tiền thu giữ không đủ khởi tố hình sự, Cơ quan điều tra đã đề nghị xử lý hành chính đối với 11 người và Chủ tịch UBND huyện T đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, riêng đối với Cà Thị H cơ quan điều tra khởi tố hình sự.

Các đồ vật, tiền của những đối tượng tham gia đánh bạc và xem đánh bạc nhưng không liên quan đến hành vi đánh bạc nên cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp gồm: trả lại Lê Văn K 01 điện thoại di động, 01 cây thuốc lá VINATABA và 02 bật lửa; Trả lại Bùi Đình V 01 điện thoại di động; Trả lại Bùi Ngọc D 01 điện thoại di động; Trả lại Lò Thị C 01 điện thoại di động, số tiền 200.000 đồng; Trả lại Điêu Thị Y 01 điện thoại di động, 01 xe mô tô hiệu Honda- ware RSX, 01 giấy phép lái xe, số tiền 15.000 đồng; Trả lại Sùng Thị H2 01 điện thoại di động, số tiền 2.000 đồng; Trả lại Mào Thị Th 02 điện thoại di động, 01 giấy phép lái xe, 01 đăng ký xe, số tiền 810.000 đồng; Trả lại Cà Thị H 01 điện thoại di động, 01 xe mô tô hiệu Honda-Lead, chìa khóa xe và giấy photocoppy đăng ký xe; Trả lại Cao Thị H1 01 điện thoại di động, số tiền 9.750.000 đồng; Trả lại Nguyễn Thị H 01 điện thoại di động và số tiền 50.000 đồng; Trả lại Nguyễn Mạnh H 01 điện thoại di động và 70.000 đồng; Trả lại Lò Thị Th 01 điện thoại di động và số tiền 500.000 đồng; Trả lại Trịnh Minh Q 01 xe mô tô hiệu Future; Trả lại Trịnh Minh Q số tiền 5.600.000 đồng.

Cáo trạng số 11/CT-VKSHTC ngày 26 tháng 9 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố bị cáo Cà Thị H về tội “đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 điều 51 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo từ 06 tháng đến 12 tháng tù về tội “đánh bạc”, tổng hợp với hình phạt 09 tháng tù cho hưởng án treo của bản án số 93/2017/HSST ngày 25/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung; Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; Về vật chứng, đề nghị chấp nhận quyết định xử lý vật chứng của cơ quan điều tra về việc trả lại các tài sản cho chủ sở hữu hợp pháp, đề nghị tịch thu tiêu hủy tang vật phương tiện phạm tội và tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền sử dụng để đánh bạc; đề nghị miễn án phí hình sự cho bị cáo.

Ti phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng đã truy tố và giữ nguyên lời khai của Bị cáo tại cơ quan Điều tra. Bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát và xin HĐXX giảm nhẹ hình phạt. Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và người làm chứng giữ nguyên ý kiến như lời khai tại cơ quan điều tra.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Tại phiên tòa vắng mặt 08 người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và 02 người làm chứng, xét người vắng mặt đã có lời khai trong quá trình điều tra và sự vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc xét xử nên HĐXX quyết định xét xử vắng mặt họ theo quy định tại khoản 1 Điều 293 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Về nội dung vụ án:

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội, phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, với lời khai của người cùng tham gia đánh bạc và người làm chứng, phù hợp với biên bản sự việc được lập khi bắt quả tang hành vi đánh bạc, các vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội thu giữ trong quá trình điều tra; biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu và các chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án.

Có đủ cơ sở kết luận vào hồi 12 giờ 30 phút ngày 10/3/2019 bị cáo Cà Thị H cùng Lò Thị Th đi bằng xe mô tô của bị cáo từ xã M, huyện TG lên thị trấn T, mục đích để mua sắm đồ dùng cho con nhỏ của bị cáo. Khi đến thị trấn T, bị cáo đã tham gia đánh bạc bằng hình thức "xóc đĩa" được thua bằng tiền tại quán nước của gia đình anh Lê Văn K cùng với 11 người khác, số tiền bị cáo khai bỏ ra để đánh bạc là 950.000 đồng, sau khi chơi bị cáo bị thua 730.000 đồng, còn lại số tiền 220.000 đồng đã bị cơ quan điều tra thu giữ khi bắt quả tang.

Theo lời khai của những người tham gia đánh bạc tổng số tiền của mọi người đã bỏ ra chơi là 3.310.000 đồng, tuy nhiên khi Công an phát hiện vào bắt giữ quả tang các đối tượng tham gia đánh bạc chạy tán loạn và đã tẩu tán nên không thu giữ được. Do đó xác định tổng số tiền thu giữ tại chiếu bạc và thu giữ trên người những người tham gia đánh bạc đã được chứng minh sử dụng để đánh bạc là 1.670.000 đồng, vì vậy bị cáo những người tham gia đánh bạc phải chịu trách nhiệm với tổng số tiền đã tham gia đánh bạc là 1.670.000 đồng.

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, đã cố ý tham gia đánh bạc bằng hình thức chơi “xóc đĩa” ăn tiền, tổng số tiền tham gia đánh bạc của bị cáo và những người tham gia đánh bạc khác là dưới 5.000.000 đồng, tuy chưa đủ số tiền tối thiểu theo quy định tại khoản 1 điều 321 của BLHS, nhưng bị cáo Cà Thị H đã bị TAND huyện TG xử phạt 09 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng về tội đánh bạc tại bản án số 93/2017/HSST ngày 25/9/2017, trong thời gian chấp hành án bị cáo không được rút ngắn thời gian thử thách, tính đến ngày thực hiện hành vi đánh bạc (ngày 10/3/2019) bị cáo chưa chấp hành xong thời gian thử thách của bản án số 93/2017/HSST; Do đó hành vi của bị cáo đã phạm vào tội đánh bạc theo khoản 1 điều 321 của Bộ luật hình sự. Vì vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

Bị cáo đã bị TAND huyện TG xử phạt về tội “đánh bạc” ngày 25/9/2017 và đang trong thời gian chấp hành thời gian thử thách của án treo nhưng không ăn năn hối cải, chấp hành pháp luật mà tiếp tục có hành vi đánh bạc nên xác định bị cáo có nhân thân xấu.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo về toàn bộ hành vi phạm tội của mình nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS, bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điều 52 của BLHS, vì vậy đề nghị của kiểm sát viên về việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo là phù hợp. .

HĐXX thấy để thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người công dân sống có ích cho xã hội, mặt khác để răn đe, cảnh tỉnh, giáo dục pháp luật cho những người khác. Đồng thời cần tổng hợp với hình phạt 09 tháng tù của bản án số 93/2017/HSST ngày 25/9/2017 của TAND huyện TG, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét gia đình bị cáo thuộc diện hộ cận nghèo, bị cáo đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi, điều kiện kinh tế không có nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với Bị cáo.

[5] Về các vấn đề khác có liên quan: Đi với những người tham gia đánh bạc cùng bị cáo hành vi chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định, Chủ tịch UBND huyện đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính là phù hợp.

[6] Về vật chứng vụ án và các tài sản thu giữ liên quan:

Các vật chứng dùng để thực hiện hành vi đánh bạc gồm: 03 quân vị, 01 chiếc bát, 01 chiếc đĩa, 02 chiếc chiếu là phương tiện phạm tội và là vật không còn giá trị cần tịch thu, tiêu hủy.

Số tiền thu giữ tại chiếu bạc 400.000 đồng cần tịch thu sung ngân sách nhà nước.

Số tiền thu giữ của bị cáo 1.220.000 đồng đã làm rõ có 220.000 đồng là tiền bị cáo sử dụng để đánh bạc nên cần tịch thu sung ngân sách nhà nước, số tiền còn lại 1.000.000 đồng bị cáo không sử dụng để đánh bạc nên cần trả lại cho bị cáo.

Số tiền thu giữ của Bùi Đình V là người cầm “cái” trong vụ đánh bạc cơ quan điều tra đã xử lý sung quỹ nhà nước theo quyết định xử phạt hành chính nên HĐXX không đặt vấn đề xem xét.

Các vật, tài sản thu giữ còn lại gồm các điện thoại di động, xe mô tô, số tiền không sử dụng để đánh bạc và không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp trong quá trình điều tra là phù hợp.

[7] Về án phí: Gia đình Bị cáo thuộc hộ cận nghèo theo Giấy chứng nhận số 285/GCN-HN.HCN ngày 25/02/2019 của UBND xã M, huyện TG, nên HĐXX chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên cần miễn toàn bộ án phí cho bị cáo theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.

[8] Xét về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân huyện: Đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của BLTTHS Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Cà Thị H phạm tội: "Đánh bạc”

2. Hình phạt:

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, Xử phạt bị cáo Cà Thị H 06 (sáu) tháng tù.

- Áp dụng khoản 5 điều 65, khoản 2 điều 56 của Bộ luật hình sự buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt 09 (chín) tháng tù của bản án số 93/2017/HSST ngày 25/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên Tổng hợp hình phạt: buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 15 (mười năm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi chấp hành án.

3. Về vật chứng vụ án:

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; các điểm a,c khoản 2, khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

- Trả lại cho bị cáo Cà Thị H số tiền 1.000.000 đồng (một triệu đồng)

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước:

+ Số tiền 400.000 đồng thu giữ tại chiếu bạc

+ Số tiền 220.000 đồng thu giữ của bị cáo Cà Thị H.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 chiếc bát sứ màu trắng nhãn hiệu Hải Dương, 01 chiếc đĩa bằng sứ nhãn hiệu Long Phương, 02 cái chiếu cũ đã qua sử dụng, 03 quân vị hình tròn có một mặt màu trắng, một mặt màu vàng.

Số vật chứng trên cơ quan Thi hành án dân sự huyện Tủa Chùa đang quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan điều tra và Chi cục thi hành án dân sự huyện T.

4. Về án phí:

Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án: Miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

5. Kháng cáo:

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án, những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 29/10/2019), đối với người vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

302
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2019/HSST ngày 29/10/2019 về tội đánh bạc

Số hiệu:10/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tủa Chùa - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về