Bản án 10/2019/HS-ST ngày 28/02/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG RIỀNG, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 10/2019/HS-ST NGÀY 28/02/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 02 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 02/2019/TLST-HS ngày 14 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2019/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo:

Đoàn Thanh L, sinh ngày 30/12/1992 tại huyện C, tỉnh Tiền Giang. Nơi cư trú: Ấp B, xã K, huyện C, tỉnh Tiền Giang; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá (học vấn): 4/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đoàn Văn M và bà Dương Thị Tuyết N; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 21/02/2012, Tòa án nhân dân quận 6, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm tù giam về tội cướp giật tài sản, bản án số 21/2012/HSST; Bị tạm giữ từ ngày 11/10/2018 đến ngày 19/10/2018 chuyển sang tạm giam đến nay “có mặt”.

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo Đoàn Thanh L: Ông Đoàn Văn M, sinh năm: 1969.

Nơi cư trú: Ấp B, xã K, huyện C, tỉnh Tiền Giang. Là cha của bị cáo “có đơn đề nghị vắng mặt”.

- Người bào chữa cho bị cáo Đoàn Thanh L: Bà Dương Thị T, sinh năm: 1987 là Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Kiên Giang “có mặt”.

Nơi cư trú: Số 52, đường H, phường V1, thành phố G, tỉnh Kiên Giang.

- Bị hại: Bà Phạm Mỹ Y, sinh năm: 1989.

Nơi cư trú: Ấp A, xã H, huyện R, tỉnh Kiên Giang “có đơn đề nghị vắng mặt”.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Trần Hoài T1, sinh năm: 1987.

Nơi cư trú: Ấp A, xã H, huyện R, tỉnh Kiên Giang “có đơn đề nghị vắng mặt”.

- Người làm chứng: Bà Huỳnh Thị L1, sinh năm: 1968.

Nơi cư trú: Ấp A, xã H, huyện R, tỉnh Kiên Giang “có đơn đề nghị vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong khoảng thời gian từ ngày 08 tháng 10 đến ngày 11 tháng 10 năm 2018, Đoàn Thanh L sống lang thang tại chợ xã H thuộc Ấp A, xã H, huyện R, tỉnh Kiên Giang, mục đích để tìm việc làm nhưng không có người thuê, do hết tiền tiêu xài nên hàng ngày L xin đồ ăn và nước uống của người dân, tối ngủ tại quầy bán hàng của các tiểu thương. Trong thời gian này, bị cáo thấy bà Phạm Mỹ Y là tiểu thương bán thịt heo tại chợ xã H, huyện R thường dọn hàng chuẩn bị bán sớm và có mang theo tài sản nên nảy sinh ý định lấy trộm khi có cơ hội. Khoảng 04 giờ, ngày 11/10/2018, thấy bà Y dọn hàng ra chuẩn bị bán như hàng ngày nên L ngồi ghế đá đối diện quầy bán thịt heo của bà Y để quan sát, theo dõi, phát hiện bà Y để túi sách trên quầy và ngồi quay mặt vào trong L liền lén lúc đến lấy trộm túi sách và bỏ chạy, lúc này bà Huỳnh Thị L1 ở gần đó phát hiện nên truy hô, bà Y và ông Trần Hoài T1 (chồng của bà Y) đuổi theo bắt giữ L và đem theo túi sách do L lấy trộm đến Công an xã H, huyện R, tỉnh Kiên Giang trình báo. Quá trình điều tra L đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên là đúng.

Ngày 11/10/2018, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang ra Quyết định tạm giữ đối với Đoàn Thanh L.

Ngày 19/10/2018, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can và ra Lệnh tạm giam Đoàn Thanh L để điều tra cho đến nay.

Vật chứng thu giữ được trong vụ án: Một túi sách màu đỏ, kích thước 37cm x 27cm, có hoa văn hình trái tim màu trắng, có 02 dây kéo, qua sử dụng. Trong túi sách có: Một quyển sổ màu đen, kích thước 16cm x 20.5cm, gồm 101 trang, sử dụng 11 trang;

Tiền Việt Nam 4.135.000đ.

Tại chứng thư thẩm định giá số: 37/TĐG-CT/HĐĐG ngày 12/10/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự xác định:

Một túi sách màu đỏ, kích thước 37cm x 27cm, có hoa văn hình trái tim màu trắng, có 02 dây kéo, qua sử dụng, tỉ lệ còn lại 50%, trị giá 40.000đ.

Một quyển sổ màu đen, kích thước 16cm x 20.5cm, gồm 101 trang, sử dụng 11 trang, tỉ lệ còn lại 50%, trị giá 15.000đ.

Giá trị tài sản 55.000đ và tài sản là tiền Việt Nam trong túi sách 4.135.000đ. Tổng giá trị tài sản 4.190.000đ.

Ngày 24 tháng 10 năm 2018, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang đã trao trả tài sản là vật chứng đã thu giữ trong vụ án cho chủ sở hữu bà Phạm Mỹ Y.

Tại kết luận Giám định pháp y Tâm thần số: 250/2018/KLGĐTC, ngày 26/12/2018 của Trung tâm pháp y tâm thần khu vực Tây Nam Bộ kết luận đối với Đoàn Thanh L:

Về y học: Tại thời điểm phạm tội và hiện tại có bệnh lý tâm thần: Rối loạn nhân cách và hành vi do sử dụng chất gây ảo giác (F16.71 - ICD10).

Về năng lực: Tại thời điểm phạm tội và hiện tại hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi do bệnh lý tâm thần.

Quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo và những người tham gia tố tụng không khiếu nại gì về các kết luận nêu trên.

Bản cáo trạng số: 03/CT-VKS ngày 14/01/2019 Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang truy tố bị cáo Đoàn Thanh L về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ quyền công tố giữ nguyên Quyết định truy tố Đoàn Thanh L về tội phạm nêu trên và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm h - q - s khoản 1 Điều 51, Điều 38 và Điều 54 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Đoàn Thanh L từ 04 tháng 21 ngày tù đến 05 tháng tù về tội trộm cắp tài sản.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp nên không đề nghị áp dụng đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Ghi nhận việc Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang đã trả tài sản cho bị hại.

Phần bồi thường dân sự: Bị hại không yêu cầu bồi thường gì khác nên đề nghị không xem xét.

Người bào chữa cho bị cáo cũng thống nhất xác định tội danh, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và các Điều luật mà Kiểm sát viên đề nghị áp dụng đối với bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị hại là bà Y xác định đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thiệt hại.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Giồng Riềng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Riềng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người bào chữa cho bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa bị cáo Đoàn Thanh L khai nhận:

Vào khoảng 04 giờ, ngày 11/10/2018, bị cáo lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu trong việc quản lý tài sản nên đã lén lút lấy trộm một túi sách của bà Y thì bị phát hiện nên bị cáo bỏ chạy được 01 đoạn đường thì bị bắt giữ cùng tang vật. Qua kiểm tra túi sách bị cáo lấy trộm tại Công an xã H, huyện R, tỉnh Kiên Giang có 01 quyển sổ và tiền Việt Nam 4.135.000đ.

Kết quả định giá tài sản: Một túi sách màu đỏ trị giá 40.000đ; Một quyển sổ màu đen trị giá 15.000đ. Tổng giá trị tài sản do bị cáo chiếm đoạt 4.190.000đ.

Lời khai nhận của bị cáo về hành vi và các tình tiết của vụ án phù hợp với lời khai của người tham gia tố tụng và các chứng cứ có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên tòa.

Khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự quy định:

“Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;

b)……………………………………………………………………………….…… ……………………………………………………………………………………...……...;

Đối chiếu hành vi trên của bị cáo với quy định của Bộ luật hình sự đã đủ căn cứ kết luận: Bị cáo Đoàn Thanh L phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang truy tố bị cáo với tội danh và Điều luật nêu trên là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, hành vi phạm tội của bị cáo nguy hiểm cho xã hội, được thực hiện với lỗi cố ý nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác. Bị cáo cũng nhận thức được tài sản hợp pháp của người khác là bất khả xâm phạm, được pháp luật bảo vệ, mọi hành vi xâm phạm đều bị nghiêm trị. Do đó, cần thiết phải xử phạt bị cáo một mức án tương xứng với hành vi phạm tội để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người công dân có ích cho xã hội.

[3]. Về tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hành vi của bị cáo chưa gây thiệt hại; khi phạm tội bị cáo là người có bệnh hạn chế khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi; quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h, q, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát và người bào chữa cho bị cáo.

Mặc dù bị cáo có nhân thân không tốt (Ngày 21/02/2012, Tòa án nhân dân quận 6, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm tù giam về tội cướp giật tài sản, bản án số 21/2012/HSST, chấp hành xong) nhưng bị cáo có từ 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên theo khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nên việc đại diện Viện kiểm sát và người bào chữa cho bị cáo đề nghị áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt theo Điều 54 của Bộ luật hình sự là có căn cứ chấp nhận, thể hiện chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Khoản 5 Điều 173 quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”. Xét thấy, bị cáo không có nghề nghiệp nên Kiểm sát viên đề nghị không phạt bổ sung là có căn cứ để Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5]. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã được nhận tài sản, không yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xét.

[6]. Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang đã quyết định xử lý vật chứng bằng biện pháp giao trả tài sản cho chủ sở hữu là bà Phạm Mỹ Y: Một túi sách màu đỏ, kích thước 37cm x 27cm, có hoa văn hình trái tim màu trắng, có 02 dây kéo, qua sử dụng; Một quyển sổ màu đen, kích thước 16cm x 20.5cm, gồm 101 trang, sử dụng 11 trang; Tiền Việt Nam 4.135.000đ (Bốn triệu một trăm ba mươi lăm nghìn đồng). Xét thấy việc xử lý vật chứng của Cơ quan điều tra không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án, không có ai khiếu nại về việc xử lý vật chứng nên Tòa án không xử lý.

[7]. Về án phí: Bị cáo Đoàn Thanh L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 173, điểm h - q - s, khoản 1 Điều 51, Điều 38 và Điều 54 của Bộ luật hình sự;

Khoản 2 Điều 136, khoản 5 Điều 328, Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Đoàn Thanh L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Đoàn Thanh L 04 (Bốn) tháng 21 (Hai mươi mốt) ngày tù. Bị cáo đã chấp hành xong nên trả tự do cho bị cáo tại phiên tòa.

2. Về án phí: Bị cáo Đoàn Thanh L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

3. Báo cho bị cáo, người đại diện - người bào chữa cho bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn luật định là 15 ngày; Những người có mặt thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày tuyên án là ngày 28/02/2019; Những người vắng mặt thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2019/HS-ST ngày 28/02/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:10/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Riềng - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về