Bản án 10/2019/HS-ST ngày 25/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DK, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 10/2019/HS-ST NGÀY 25/01/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 01 năm 2019, Tòa án nhân dân huyện DK xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 84/2018/TLST-HS ngày 03 tháng 12 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 07/2019/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị P (tên gọi khác: Bé Cọ) - sinh năm 1984 tại tp. N - Khánh Hòa; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: 11 đường T - phường V - tp. N - Khánh Hòa; Nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ học vấn: 02/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn M (1963) và bà Đào Thị V (1962); Có chồng Lê Minh A (đã ly hôn) và có 01 con (2005); Tiền sự: không; Tiền án: + Bản án số 164/2010/HSST ngày 26/7/2010, Tòa án nhân dân thành phố N xử phạt 06 tháng tù, cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời gian thử thách 12 tháng.

+ Bản án số 37/2012/HSST ngày 02/3/2012, Tòa án nhân dân thành phố N xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. + Bản án số 243/2012/HSST ngày 23/10/2012, Tòa án nhân dân thành phố N xử phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp với 09 tháng tù của bản án số 37/2012/HSSTngày 02/3/2012, buộc chấp hành hình phạt chung là 02 năm 9 tháng tù. Chấp hànhxong ngày 06/02/2015. + Bản án số 174/2015/HSST ngày 19/8/2015, Tòa án nhân dân thành phố N xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong ngày 09/02/2018; Bắt tạm giữ, tạm giam ngày 29/8/2018; Có mặt tại phiên tòa.

* Bị hại: Lê Thị Thu T - sinh năm 1979

Trú tại: tổ dân phố D2 - thị trấn DK - DK - Khánh Hòa; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Sáng ngày 30/5/2018, Nguyễn Thị P đi xe buýt từ tp. N - Chợ Th (DK) để tìm tài sản trộm cắp. Đến khoảng 10 giờ 30 phút cùng ngày, P đến sạp bán trang sức của chị Lê Thị Thu T, phát hiện chiếc giỏ xách của chị T treo trên tường, lợi dụng lúc chị T đang bán hàng, P lén lút đến lấy giỏ xách rồi mang đi một đoạn khoảng 70m. Đến chỗ vắng người, P lục tìm trong giỏ lấy 3.000.000đ, 01 sợi dây chuyền và mặt dây chuyền bằng kim loại. Ngoài ra còn có chiếc điện thoại trắng đen đã cũ, không sử dụng được nên P bỏ lại với chiếc giỏ xách.

Ngày 31/5/2018, người đàn ông (không xác định được nhân thân, lai lịch) nhặt được chiếc giỏ xách trả lại cho chị T.

Ngày 08/6/2018, P tiếp tục đến Chợ Th để tìm cơ hội trộm cắp tài sản thì bị chị T bắt giữ, giao cho cơ quan Công an.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 46 ngày 17/8/2018 và số 68 ngày29/10/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện DK xácđịnh:

- 01 giỏ xách trị giá 140.000đ, 01 sợi dây chuyền và mặt dây chuyền bằng kim loại: trị giá 900.000đ.

- 01 điện thoại di động Nokia trắng đen đã bị hỏng: trị giá 0đ.

Tại Cơ quan điều tra Công an huyện DK, Nguyễn Thị P đã khai nhận hành vi phạm tội.

Tại bản cáo trạng số 68/CT-VKSDK ngày 29/11/2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện DK đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị P về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện DK - tỉnh Khánh Hòa giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm b, h, s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo P từ 02 năm tù đến 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Về trách nhiệm dân sự: người bị hại đã nhận lại tài sản và được bồi thường nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét. Án phí: đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Quá trình giải quyết vụ án, các Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong vụ án không có khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng.

 [2] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa hôm nay, người bị hại vắng mặt. Tuy nhiên, người bị hại đã được tống đạt hợp lệ giấy triệu tập tham gia phiên tòa. Do đó, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đối với người này.

 [3] Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở để xác định sáng ngày 30/5/2018, P đã đi xe buýt từ tp. N lên thị trấn DK để tìm tài sản trộm cắp. Lợi dụng khu vực chợ đông đúc, khó kiểm soát và sự sơ hở của người bị hại, bị cáo đã lén lút lấy của chị T 01 giỏ xách bên trong có 3.000.000đ, 01 dây chuyền có mặt dây chuyền và 01 điện thoại di động hiệu Nokia. Trước đó, bị cáo đã từng bị Tòa án nhân dân tp. N xét xử nhiều lần. Vì vậy, lần phạm tội này của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện DK truy tố bị cáo P với tội danh nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

 [4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật hình sự bảo vệ. Bị cáo là người có nhân thân xấu, nhiều lần bị xử phạt về hành vi trộm cắp tài sản nhưng bị cáo không lấy đây là bài học để tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà lại liên tục phạm tội. Vì vậy, cần phải xử phạt bị cáo mức hình phạt thật nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa ngày hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự nguyện bồi thường cho người bị hại, tài sản thiệt hại không lớn, được người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt, đây là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015 nên cần xem xét giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo để bị cáo nhận thấy được chính sách khoan hồng của Nhà nước mà yên tâm cải tạo trở thành người công dân có ích cho xã hội.

 [5] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại Lê Thị Thu T đã nhận lại tài sản và tiền bồi thường, không có yêu cầu gì. Tại phiên tòa hôm nay, chị T vắng mặt nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí:

Vì các lẽ trên,

Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm b, h, s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 đối với bị cáo Nguyễn Thị P (Bé Cọ).

Xử phạt: bị cáo Nguyễn Thị P (Bé Cọ) 03 (ba) năm tù về tội Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 29/8/2018.

Về án phí:

Bị cáo Nguyễn Thị P (Bé Cọ) nộp 200.000đ (Hai trăm nghìnđồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn15 ngày, kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2019/HS-ST ngày 25/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:10/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Diên Khánh - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về