Bản án 10/2019/HS-ST ngày 21/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BC, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 10/2019/HS-ST NGÀY 21/01/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã BC, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 04/2019/TLST-HS ngày 09 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2019/QĐXXST-HS ngày 09/01/2019 đối với bị cáo:

Đinh Công C, sinh năm 1996, tại tỉnh Hà Nam; hộ khẩu thường trú: Thôn Nam X, xã Nhân N, huyện LN, tỉnh Hà Nam; chỗ ở: Không nơi cư trú nhất định; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 10/12; con ông Đinh Văn T, sinh năm 1955 và bà Trần Thị N, sinh năm 1960; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt truy nã và tạm giam từ ngày 16/9/2018 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên toà.

- Bị hại:

1. Anh Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1995; trú tại: Khu phố 3B, phường TH, thị xã BC, tỉnh Bình Dương. Có mặt;

2. Anh Lê Thanh S, sinh năm 1998; trú tại: Đường D12, khu phố 6, phường TH, thị xã BC, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt;

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Trần Thị L, sinh năm 1989; trú tại: Khu phố 6, phường TH, thị xã BC, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đinh Công C là bạn chơi game chung với anh Lê Thanh S. Khoảng 17 giờ 30 phút, ngày 12/11/2017, Đinh Công C đến quán ăn Như Ý tại khu phố 6, phường TH, thị xã BC, tỉnh Bình Dương nơi anh S làm việc để phụ anh S giữ xe cho quán và C ở tại quán. Đến 04 giờ sáng ngày 13/11/2017, anh Nguyễn Văn Đ là quản lý của quán ăn Như Ý đi chơi về và dựng xe mô tô hiệu Yamaha Nouvo LX màu đen, biển số 61G1.330.44 bên hông trái của quầy thu ngân (cách phòng ngủ của anh Đ khoảng 02mét) và đi vào phòng ngủ. Anh Đ để trong phòng ngủ 01 (một) túi xách da màu đen, bên trong có số tiền 18.000.000 đồng; 01 (một) ví da màu đen, bên trong có 2.000.000 đồng; 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 61G1.330.44 cùng một số giấy tờ khác; 01 (một) điện thoại di động hiệu SamSung Galaxy A5 và 01 (một) điện thoại di động hiệu Vivo V5.

Khoảng 05 phút sau, anh S vào phòng ngủ của anh Đ mượn điện thoại di động hiệu Vivo V5 của anh Đ để chơi game, anh Đ đồng ý và đưa điện thoại hiệu Vivo V5 cho anh S mượn. Anh S ra võng nằm chơi game được khoảng 15 phút thì ngủ quên trên võng. Lúc này, Đinh Công C thấy anh S và anh Đ đều đã ngủ say nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản để lấy tiền tiêu xài. C đi đến chỗ võng của anh S đang nằm ngủ và lén lút lấy 01 điện thoại hiệu Vivo V5 bỏ vào túi quần, sau đó C tiếp tục đi vào phòng ngủ của anh Đ lén lút lấy 01 (một) túi xách da màu đen, bên trong túi da có số tiền 18.000.000 đồng; 01 (một) ví da màu đen, bên trong có số tiền 2.000.000 đồng và Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 61G1.330.44 cùng một số giấy tờ khác; một điện thoại di động hiệu SamSung Galaxy A5. Sau đó C bỏ tất cả tài sản vừa lấy trộm được vào cốp xe mô tô hiệu Yamaha Nouvo LX màu đen, biển số 61G1.330.44 dựng bên hông trái của quầy thu ngân và mở khóa xe, lén lút dắt xe ra khỏi quán rồi điều khiển xe đi về hướng Thành phố Hồ Chí Minh.

Đến khoảng 10 giờ ngày 13/11/2017, anh Đ thức dậy thì phát hiện bị mất xe và một số tài sản khác nên gọi anh S thức dậy. Sau đó, anh Đ và anh S cùng xem lại hình ảnh trên Camera an ninh của quán thì phát hiện Đinh Công C là người đã lấy trộm tài sản. Sau khi bị mất tài sản, anh Đ và anh S có đi tìm C nhưng không gặp. Đến ngày 21/11/2017, anh trai của C là Đinh Công H (sinh năm 1983, trú tại: Thôn Nam X, xã Nhân N, huyện LN, tỉnh Hà Nam) bắt gặp C điều khiển xe trên đường DL4, khu phố 3B, phường TH nên anh H đã yêu cầu C dừng xe lại và yêu cầu C trả lại tài sản cho anh Đ. C đã đưa túi xách da màu đen, bên trong có điện thoại Vivo V5 và Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô hiệu Yamaha Nouvo LX màu đen, biển số 61G1-330.44 cho anh H. Sau đó, lợi dụng lúc anh H không để ý, C đã điều khiển xe bỏ chạy. Anh H đã giao lại túi xách da màu đen, điện thoại Vivo V5 và Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô hiệu Yamaha Nouvo LX màu đen, biển số 61G1.330.44 cho Cơ quan Công an. Ngày 27/5/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã BC đã ra Quyết định truy nã bị can số 06/QĐ đối với Đinh Công C.

Sau khi lấy trộm tài sản thì Đinh Công C đã tới Phường 17, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh sống tại đây. Quá trình sinh sống tại đây, C đã làm mất một ví da màu đen, bên trong có số tiền 2.000.000 đồng kèm theo một số giấy tờ khác và một điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A5. Đối với số tiền 18.000.000 đồng C đã tiêu xài cá nhân hết. Đến ngày 22/3/2018, khi C đang điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha Nouvo LX màu đen, biển số 61G1-330.44 lưu thông trên đường thuộc khu vực Phường 4, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh thì bị lực lượng tuần tra thuộc Đội Cảnh sát trật tự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kiểm tra hành chính, C không xuất trình được giấy tờ xe nên lực lượng Công an đã thu giữ xe, lập biên bản và giao cho Công an Phường 4, quận Gò Vấp làm việc. Do sợ hành vi trộm cắp của mình bị phát hiện nên C đã bỏ trốn về phường Thống Nhất, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai cư trú. Trong khoảng thời gian cư trú tại Phường Thống Nhất, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, C lại tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản ở một tiệm Internet của anh Nguyễn Hoài Phương trên địa bàn và sau đó bỏ trốn đến Phường 5, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh sinh sống. Tại đây, theo tin báo của anh Phương, ngày 15/9/2018 C đã bị Công an Phường 5, quận Gò Vấp mời C về trụ sở làm việc, đồng thời báo cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa tiếp nhận hồ sơ và đưa C về trụ sở. Quá trình làm việc, phát hiện Đinh Công C đang bị Công an thị xã BC truy nã nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã báo cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã BC. Ngày 16/9/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã BC, tỉnh Bình Dương phối hợp với Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố BH, tỉnh Đồng Nai tiến hành bắt người đang bị truy nã trên địa bàn phường Thống N.

Đối với xe mô tô hiệu Yamaha Nouvo LX màu đen, biển số 61G1.330.44: Sau khi C bỏ trốn thì Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận GV, Thành phố Hồ Chí Minh đã liên hệ với Công an thị xã BC để xử lý vật chứng. Ngày 17/7/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã BC đã ra Quyết định tạm giữ đồ vật, tài liệu số 05/QĐ tạm giữ xe mô tô hiệu Yamaha Nouvo LX màu đen, biển số 61G1-330.44.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã BC, Đinh Công C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Ngày 10/12/2017, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã BC định giá:

01 xe mô tô hiệu Yamaha Nouvo LX màu đen, biển số 61G1-330.44 trị giá 20.900.000 đồng;

01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A5 màu vàng, trị giá 7.650.000 đồng;

01 điện thoại di động hiệu Vivo V5 trị giá 5.850.000 đồng;

01 túi xách da màu đen trị giá 190.000 đồng;

01 ví da màu đen trị giá 405.000 đồng.

Ngoài ra, bị cáo đã chiếm đoạt của bị hại Đông số tiền mặt là 20.000.000 đồng. 

Tổng giá trị tài sản bị cáo đã chiếm đoạt của các bị hại là 54.995.000 đồng.

Đối với xe mô tô biển số 61G1-330.44 do chị Trần Thị L đứng tên trong Giấy đăng ký xe. Tháng 8/2017, chị Loan đã bán lại xe cho anh Nguyễn Văn Đ nhưng không làm thủ tục sang tên cho anh Đ.

Ngày 19/7/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Bên Cát ra Quyết định xử lý vật chứng số 212/QĐ và giao trả cho anh Đ tài sản gồm: 01 túi xách da màu đen; 01 điện thoại di động hiệu Vivo; 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 61G1-330.44; 01 xe mô tô hiệu Yamaha Nouvo LX màu đen biển số 61G1-330.44 cho anh Nguyễn Văn Đ.

Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra, bị hại Nguyễn Văn Đ yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 25.000.000 đồng đối với những tài sản bị cáo đã chiếm đoạt không thu hồi lại được.

Tại bản Cáo trạng số 25/CT-VKS ngày 09/01/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã BC, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Đinh Công C về tội: “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã BC trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Đinh Công C về tội: “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), đề nghị xử phạt bị cáo mức án từ 02 năm 03 tháng đến 02 năm 09 tháng tù. Đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo về việc bồi thường số tiền 25.000.000 đồng cho bị hại Nguyễn Văn Đ.

Tại phiên tòa:

Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi của mình đúng như nội dung bản Cáo trạng đã mô tả và thừa nhận toàn bộ hành vi của mình như lời luận tội của đại diện Viện Kiểm sát. Trong phần tranh luận, bị cáo không tranh luận với lời luận tội của đại diện Viện Kiểm sát mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đồng thời, bị cáo đồng ý bồi thường cho bị hại Đông số tiền 25.000.000 đồng, tuy nhiên chưa có khả năng thực hiện ngay việc bồi thường cho bị hại.

Bị hại trình bày: Thống nhất với nội dung bản Cáo trạng, tội danh và mức hình phạt mà đại diện Viện Kiểm sát truy tố, đề nghị áp dụng đối với bị cáo. Bị hại chỉ yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 25.000.000 đồng. Ngoài ra, bị hại không có yêu cầu gì khác về trách nhiệm dân sự cũng như trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của vị đại diện Viện Kiểm sát, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên Công an thị xã BC, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thị xã BC trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo thể hiện: Tại phiên toà, bị cáo đã khai nhận: Khoảng 04 giờ 30 phút, ngày 13/11/2017, tại quán ăn Như Ý thuộc khu phố 6, phường TH, thị xã BC, tỉnh Bình Dương, lợi dụng lúc các bị hại đang ngủ say, bị cáo đã thực hiện hành vi lén lút lấy trộm của anh Nguyễn Văn Đ các tài sản gồm: 01 (một) xe mô tô hiệu Yamaha Nouvo LX màu đen biển số 61G1.330.44; 01 (một) túi xách da màu đen, bên trong có số tiền 18.000.000 đồng; 01 (một) ví da màu đen, bên trong có số tiền 2.000.000 đồng và 01 (một) Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 61G1.330.44 cùng một số giấy tờ khác; 01 (một) điện thoại di động hiệu SamSung Galaxy A5; và lén lút lấy trộm của anh Lê Thanh S 01 (một) điện thoại di động hiệu Vivo V5. Tổng giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt của các bị hại là 54.995.000 đồng.

Bị cáo khai nhận đã thực hiện toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng mô tả. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của các bị hại và các tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án.

Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Về nhận thức, bị cáo biết việc lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật và sẽ bị pháp luật trừng trị nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện, thể hiện ý thức tham lam, liều lĩnh và xem thường pháp luật.

Hành vi lợi dụng sự sơ hở, mất cảnh giác của các bị hại trong việc quản lý, trông coi tài sản, bị cáo đã thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của các bị hại với tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 54.995.000 đồng. Hành vi này đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Do đó, bản Cáo trạng số 25/CT-VKS ngày 09/01/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã BC truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ mà còn gây mất trật tự trị an tại địa phương. Do đó, trong lần phạm tội này cần thiết phải xử phạt bị cáo mức án thật nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo và cần tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi xã hội trong một khoảng thời gian đủ để giáo dục răn đe và phòng ngừa chung trong xã hội.

[3] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được cân nhắc, xem xét khi quyết định hình phạt gồm: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa , bị cáo thanh khân khai báo, tỏ ra ăn năn , hôi cai. Do đó, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Xét thấy, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và mức hình phạt mà đại diện Viện Kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo là tương xứng với tính chất và mức độ của hành vi phạm tội của bị cáo nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về xử lý vật chứng: Ngày 19/7/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã BC đã giao trả cho anh Nguyễn Văn Đ tài sản gồm: 01 túi xách da màu đen; 01 điện thoại di động hiệu Vivo; 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô hiệu Yamaha Nouvo LX màu đen biển số 61G1.330.44; 01 xe mô tô hiệu Yamaha Nouvo LX màu đen, biển số 61G1.330.44 là phù hợp và có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Đối với số tiền mặt 18.000.000 đồng bị cáo đã tiều xài cá nhân hết và trong quá trình bỏ trốn bị cáo đã làm mất một ví da màu đen, bên trong có số tiền 2.000.000 đồng kèm theo một số giấy tờ khác, một điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A5. Đây là vật chứng của vụ án nhưng không thu hồi được nên không có cơ sở để xử lý.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa, bị cáo đồng ý bồi thường cho bị hại Đông số tiền 25.000.000 đồng và được bị hại đồng ý. Xét thấy, đây là sự thỏa thuận dựa trên sự tự nguyện và là quyền tự quyết định, định đoạt giữa các bên. Xét thấy, sự thỏa thuận này là phù hợp, không trái với quy định của pháp luật và đạo đức xã hội nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017);

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đinh Công C phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Đinh Công C 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 16/9/2018.

3. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); Căn cứ các Điều 584, 585 và 589 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo Đinh Công C về việc bồi thường cho bị hại Nguyễn Văn Đ số tiền 25.000.000 đồng. Buộc bị cáo Đinh Công C bồi thường cho anh Nguyễn Văn Đ số tiền 25.000.000 đồng (hai mươi lăm triệu đồng).

Kể từ ngày Bản án có hiệu lực thi hành và anh Nguyễn Văn Đ có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị cáo Đinh Công C chưa thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ, thì hàng tháng bị cáo Đinh Công C còn phải thanh toán cho anh Đ số tiền lãi bằng mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

4. Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23, Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Đinh Công C phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm và 1.250.000 đồng (một triệu, hai trăm năm mươi nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Bị cáo và bị hại có mặt có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày Tòa tuyên án.

Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết công khai theo quy định.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014)./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

194
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2019/HS-ST ngày 21/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:10/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về