Bản án 10/2019/HS-ST ngày 20/02/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HOÀ BÌNH, TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 10/2019/HS-ST NGÀY 20/02/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Hôm nay, ngày 20 tháng 02 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 06/2019/TLST-HS ngày 18 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 13/2019/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo:

Lê Quang D (tên gọi khác: Dương), sinh ngày 28/9/1984; Nơi ĐKHK: thị trấn T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa;

Chỗ ở: đường Tô Vĩnh Diện, thị trấn T, huyện T, Thanh Hóa;

Trình độ học vấn: 12/12 Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Lê Quang T, sinh năm 1954 và bà Đỗ Thị M, sinh năm 1956; Vợ: Bùi Thị Hạnh, sinh năm 1984 và 02 con.

Tiền án, tiền sự: không;

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 12/11/2018 đến ngày 30/01/2019 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng biện pháp Bảo lĩnh và Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện tại ngoại, được triệu tập có mặt tại phiên tòa.

* Bị hại: chị Bùi Thị S (tên gọi khác: Giang), sinh năm 1986

Địa chỉ: tổ 25, phường H, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình.

(Bị hại vắng mặt không lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Quang D và Bùi Thị S có quan hệ tình cảm từ năm 2014, D thường xuyên ăn ngủ tại nhà chị S. Đến tháng 8/2018 hai bên mâu thuẫn, chị S không cho D ở cùng nên đã thay toàn bộ khóa cửa.

Khong 5h, ngày 06/9/2018 Lê Quang D điều khiển xe ô tô từ Lương Sơn đến nhà chị S. D gọi điện cho chị S không được nên đã mượn 02 chiếc búa bằng sắt của gia đình anh Bùi Trọng Thanh (là hàng xóm cạnh nhà chị S) để đập ổ khóa. Sau khi dùng búa phá hỏng ổ khóa cửa sắt, D trả búa lại vị trí ban đầu và dùng hai tay đẩy mạnh làm bung ổ khóa thứ hai khóa mặt trong cửa sắt. D đi và trong thấy cửa nhôm kính không khóa nên mở cửa đi vào phòng khách bật điện sáng. D tiếp tục đi vào phòng ngủ bật điện, chị S vẫn ngủ say trên giường. D mở tủ quần áo của chị S lấy giấy tờ của mình. Khi quay lại thấy trên bàn trang điểm ở góc phòng ngủ có để 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6S Plus; 01 đồng hồ đeo tay bằng kim loại màu vàng; 01 đồng hồ thông minh đeo tay bằng nhựa màu trắng và số tiền khoảng 1.000.000Đ. D lấy toàn bộ số tài sản trên cầm trên tay ra khỏi phòng, lúc này chân D đá vào chiếc quạt gió kê trong phòng ngủ làm chị S tỉnh giấc. Chị S hỏi lý do D vào nhà, D trả lời vào lấy đồ cá nhân, chị S nhìn thấy trên tay D đang cầm các tài sản của mình nên chạy theo D ra ngoài cửa phòng ngủ để đòi lại. Chị S túm được tay áo D kéo lại, D hất tay chị S ra và cầm toàn bộ tài sản lên xe điều khiển về Lương Sơn.

Ngày 14/9/2019, D liên lạc và trả lại cho chị S toàn bộ số tài sản đã lấy gồm: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6S Plus; 01 đồng hồ đeo tay bằng kim loại màu vàng; 01 đồng hồ thông minh đeo tay bằng nhựa màu trắng và số tiền 1.000.000Đ.

Kết luận định giá tài số: 107/HĐ-ĐGTS ngày 26/9/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Hòa Bình kết luận: 01 (Một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S Plus màu vàng trị giá 6.000.000Đ (S triệu đồng); đối với 02 chiếc đồng hồ đeo tay, do tài sản không rõ nguồn gốc xuất xứ, không đủ thông tin để định giá.

Cáo trạng số 07/CT-VKS ngày 17/01/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hòa Bình truy tố Lê Quang D về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 BLHS.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình giống như lời khai tại cơ quan điều tra, các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Đồng thời thừa nhận hành vi giống như bản Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hòa Bình truy tố bị cáo. Bị cáo ăn năn, hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hòa Bình giữ nguyên quyết định truy tố, phân tích lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của người làm chứng và các tài liệu khác trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở xác định Lê Quang D phạm tội “Trộm cắp tài sản”; đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm (i,s) khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 BLHS; xử phạt Lê Quang D từ 09 đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo với thời gian thử thách nhất định; bị cáo phải nộp án phí HSST.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an TP Hòa Bình, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân TP Hòa Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo: Lời khai của Lê Quang D tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay đã thừa nhận ngày 06/9/2018 đã có hành vi trộm cắp 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6S Plus; 01 đồng hồ đeo tay bằng kim loại màu vàng; 01 đồng hồ thông minh đeo tay bằng nhựa màu trắng và số tiền 1.000.000Đ của chị Bùi Thị S tại tổ 25, phường H, TP Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình. Lời khai của bi cáo phù hợp với lời khai của bị hại, bản kết luận định giá cũng như các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án. Do vậy có đủ cơ sở xác định bị cáo Lê Quang D đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân TP Hòa Bình đã truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật áp dụng trong Cáo trạng số 70/CT-VKS ngày 17/01/2019 là có căn cứ.

[3] Về tính chất hành vi phạm tội: hành vi phạm tội của bị cáo là nguy nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm hại đến quyền sử hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an trên địa bàn. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi trộm cắp tài sản là phạm pháp nhưng vẫn thực hiện hành vi; nên đối với bị cáo cần xử lý nghiêm khắc, nhằm giáo dục cải tạo bị cáo, đồng thời răn đe phòng ngừa chung. Tuy nhiên khi lượng hình xét thấy: trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo đã tự nguyện trả lại tài sản cho chủ sở hữu; bị cáo có nơi cư trú rõ ràng; đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm (i,s) khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do đó xét thấy không cần thiết cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội mà chỉ cần áp dụng hình phạt tù có điều kiện cũng đủ giáo dục và cải tạo bị cáo.

[4] Về tang vật vụ án:

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6S Plus; 01 đồng hồ đeo tay bằng kim loại màu vàng; 01 đồng hồ thông minh đeo tay bằng nhựa màu trắng và số tiền 1.000.000Đ đã trả lại cho bị hại; bị hại không có đề nghị gì khác nên Tòa không xử lý.

- 02 chiếc búa bằng kim loại Cơ quan điều tra đã trả cho chủ sở hữu.

- 02 ổ khóa Việt Tiệp đã bị hư hỏng, không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào: khoản 1 Điều 173, điểm (i, s) khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 BLHS;

Tuyên bố: Lê Quang D phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

Xử phạt: Lê Quang D 09 (Chín) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 (Mười tám) tháng tính từ ngày tuyên án.

Giao Lê Quang D cho UBND thị trấn T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách của án treo, nếu Lê Quang D thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

- Áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS Tuyên tịch thu, tiêu hủy 02 ổ khóa Việt Tiệp hiện lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự TP Hòa Bình theo biên bản giao nhận vật chứng số 25/BB ngày 18/02/2019.

- Áp dụng: Điều 135 BLTTHS và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH buộc bị cáo phải nộp 200.000Đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí HSST - Áp dụng: Điều 331; 333 Bộ luật TTHS;

Tuyên: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo trong thời hạn luật định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2019/HS-ST ngày 20/02/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:10/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hòa Bình - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về