Bản án 10/2019/HSST ngày 17/04/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ C, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 10/2019/HSST NGÀY 17/04/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố C, tỉnh Khánh Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 07/2019/TLST-HS ngày 27 tháng 02 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2019/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Ngọc N - sinh năm 1998 tại: Bình Định; Nơi cư trú: Tổ dân phố Hòa T, phường N, thành phố C, tỉnh Khánh Hòa; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Ngọc Nh – sinh năm: 1976 và bà: Đỗ Thị Nh – sinh năm: 1978; vợ, con: chưa; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giam từ ngày 24/10/2018 - có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng:

1. Võ Thị B - sinh năm: 1996 Trú tại: Tổ dân phố Nghĩa B, phường CN, thành phố C, tỉnh Khánh Hòa – Vắng mặt tại phiên tòa.

2. Hà Thanh Th - sinh năm: 1998 Trú tại: Tổ dân phố Lộc Hưng, phường Cam Lộc, thành phố C, tỉnh Khánh Hòa – Vắng mặt tại phiên tòa.

3. Đặng Thị L - sinh năm: 1994 Trú tại: Thôn T, xã E, huyện P, tỉnh Đăk Lăk – Vắng mặt tại phiên tòa.

4. Trần Tấn T - sinh năm: 1971 Trú tại: Tổ dân phố HT, phường CN, thành phố C, tỉnh Khánh Hòa – Vắng mặt tại phiên tòa.

5. Lê Thị Ngọc TH – sinh năm: 1971 Trú tại: Tổ dân phố NC, phường CN, thành phố C, tỉnh Khánh Hòa – Vắng mặt tại phiên tòa.

6. Nguyễn Xuân H – sinh năm: 1965 Trú tại: Tổ dân phố NA, phường CN, thành phố C, tỉnh Khánh Hòa – Vắng mặt tại phiên tòa.

7. Phạm Hùng Ch – sinh năm: 1987 Trú tại: Tổ dân phố NA, phường CN, thành phố C, tỉnh Khánh Hòa – Vắng mặt tại phiên tòa.

8. Nguyễn Thành B – sinh năm: 1985 Trú tại: Xóm 5, xã V H, huyện TP, tỉnh BT – Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Từ ngày 19/10/2018 đến ngày 24/10/2018, Nguyễn Ngọc N mua ma túy của người tên L (chưa rõ lai lịch) tại khu vực nhà thờ Xuân Ninh ở phường Cam N, thành phố C và tại khách sạn K ở phường B thành phố C và bán lại cho những người nghiện để kiếm lời. Cụ thể như sau:

Ln 1: Khoảng 01 giờ ngày 19/10/2018, Võ Thị B gọi điện thoại cho N để mua ma túy, N đồng ý. Nghĩa đến phòng 107 nhà nghỉ 71 của ông Trần Tấn T do Nguyễn Thành B làm quản lý ở tổ dân phố T, phường CN, thành phố C bán 01 bịch ma túy cho B với giá 300.000 đồng.

Ln 2: Khoảng 19 giờ ngày 21/10/2018, Võ Thị B gọi điện thoại cho N để mua ma túy. N đồng ý. N đến phòng 302 khách sạn L của bà Lê Thị Ngọc T ở tổ dân phố N, phường CN thành phố C bán 01 bịch ma túy cho B với giá 500.000 đồng.

Ln 3: Khoảng 18 giờ ngày 22/10/2018, Hà Thanh Th gọi điện thoại cho n để mua ma túy. Nghĩa đồng ý. Nghĩa đến phòng 302 khách sạn Lâm Thủy ở tổ dân phố nghĩa m, phường N, thành phố C bán 01 bịch ma túy cho Th với giá 400.000 đồng.

Ln 4: Khoảng 02 giờ ngày 24/10/2018, Hà Thanh Th gọi điện thoại cho Nghĩa để mua ma túy. Nghĩa đồng ý và hẹn Thịnh đến phòng trọ của Nghĩa ở tổ dân phố A, phường N, thành phố C (chủ phòng trọ là anh Phạm Hùng Ch). Tại đây, Nghĩa bán 01 bịch ma túy cho Th với giá 300.000 đồng.

Đến khoảng 11 giờ ngày 24/10/2018, tổ công tác của đội Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế - ma túy Công an thành phố C tiến hành kiểm tra phòng trọ của Nghĩa ở tổ dân phố Nghĩa A, phường N, thành phố C phát hiện và thu giữ: 03 bịch nilong màu trắng có chứa chất tinh thể màu trắng.

Ti bản kết luận giám định số 568 ngày 28/10/2018, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh K kết luận: tinh thể trong mẫu ký hiệu A gửi giám định là ma túy loại Methamphetamine, có khối lượng 0.3866g.

Ti bản cáo trạng số 09/CT-VKS-HS ngày 26/02/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố C, tỉnh K đã truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc N về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Ti phiên tòa, Viện kiểm sát nhân dân thành phố C giữ nguyên nội dung bản cáo trạng nêu trên; Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b,c khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Nguyễn Ngọc N;

Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc N từ 08 năm đến 09 năm tù. Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Tịch thu nộp ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu OPPO, màu trắng (bị vỡ mặt lưng), số imel: 355684042961997, gắn sim số 01672563747, vỡ màn hình, đã qua sử dụng.Tịch thu tiêu hủy: 01 cân tiểu ly màu đen, 08 bị nilong bên trong còn dính một ít tinh thể màu trắng.

Bị cáo không tranh luận.

Li nói sau cùng của bị cáo trước khi Hội đồng xét xử nghị án thể hiện các bị cáo rất hối hận về hành vi phạm tội của mình và tỏ ra ăn năn hối cải, đề nghị Hội đồng xét xử khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo để các bị cáo yên tâm cải tạo, sớm trở về gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố C, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố C, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án:

Ti phiên tòa, bị cáo Nguyễn Ngọc N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Từ ngày 19/10/2018 đến ngày 24/10/2018, Nguyễn Ngọc N có hành vi 02 lần bán ma túy cho Võ Thị B và 02 lần bán ma túy cho Hà Thanh Th. Thu giữ của Nghĩa 0.3866 gam ma túy loại Methamphetamine.

[2.1] Về tính chất và định khung hình phạt: Hành vi của bị cáo Nguyễn Ngọc N đã có đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b,c khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, cáo trạng số 09/CT-VKS-HS ngày 26/02/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố C đã truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc N về điều khoản nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của Nguyễn Ngọc N là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến những quy định của nhà nước về quản lý và sử dụng các chất ma túy, gây nguy hại và gây mất trật tự an toàn xã hội. Chính vì vậy cần xử lý nghiêm minh, phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng răn đe bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Vì vậy nghĩ nên xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, để các bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà tích cực cải tạo.

[3] Về vật chứng vụ án: Đây là công cụ, phương tiện phạm tội nên căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Tch thu sung ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu OPPO, màu trắng (bị vỡ mặt lưng), số imel: 355684042961997, gắn sim số 01672563747, vỡ màn hình, đã qua sử dụng.

Tch thu tiêu hủy: 01 cân tiểu ly màu đen, 08 bị nilong bên trong còn dính một ít tinh thể màu trắng.

[4]. Đối với người tên L, cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố C chưa điều tra làm rõ được lai lịch nên tiếp tục điều tra làm rõ, xử lý sau. Đối với anh Phạm Hùng Ch cho N thuê nhà trọ, Trần Tấn T là chủ nhà nghỉ 71, Nguyễn Thành B là quản lý nhà nghỉ 71 và Lê Thị Ngọc T là chủ khách sạn Lâm Th không biết Nguyễn Ngọc N bán ma túy tại nhà trọ, nhà nghỉ và khách sạn của mình nên không truy cứu trách nhiệm hình sự

[5] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Bị cáo Nguyễn Ngọc N phải nộp 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm b,c khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Ngọc N 08 (tám) năm tù về tội tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn phạt tù tính từ ngày bắt giam (ngày 24/10/2018).

Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Tch thu nộp ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu OPPO, màu trắng (bị vỡ mặt lưng), số imel: 355684042961997, gắn sim số 01672563747, vỡ màn hình, đã qua sử dụng.

Tch thu tiêu hủy: 01 cân tiểu ly màu đen, 08 bị nilong bên trong còn dính một ít tinh thể màu trắng.

(Tình trạng vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 01/3/2019 giữa cơ quan Cảnh sát điều tra thành phố Cam Ranh và cơ quan Thi hành án dân sự thành phố Cam Ranh).

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Bị cáo Nguyễn Ngọc N phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Nguyễn Ngọc N được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2019/HSST ngày 17/04/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:10/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cam Ranh - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về