Bản án 10/2019/HS-ST ngày 14/03/2019 về tội cướp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẨM MỸ, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 10/2019/HS-ST NGÀY 14/03/2019 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 3 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cẩm Mỹ, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 01/2019/TLST-HS ngày 05/01/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2019/QĐXXST-HS ngày 26/02/2019 đối với bị cáo:

Hàn Xác H (tên thường gọi là C), sinh năm: 1991, tại Đồng Nai; nơi đăng ký thường trú và sinh sống: số 268, tổ 8, ấp 6, xã S, huyện M, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Hoa; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Hàn Quế S, sinh năm: 1967 và bà Nguyễn Thị Thùy L, sinh năm: 1974; gia đình có 02 anh, em, bị cáo lớn nhất; chưa có vợ, con.

Tiền sự: không. Tiền án: có 02 tiền án:

(i) ngày 25/9/2012 bị Tòa án nhân dân huyện Cẩm Mỹ xử phạt 02 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” (bản án số 50/2012/HS-ST);

(ii) ngày 24/11/2015 bị Tòa án nhân dân huyện Cẩm Mỹ xử phạt 01 năm 02 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (bản án số 60/2015/HS-ST), đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 21/10/2016;

Ngày 22/10/2018 bị bắt và tạm giam cho đến nay. (Có mặt)

Bị hại: anh Cao Văn Th, sinh năm: 1977; địa chỉ: tổ 6, ấp 7, xã S, huyện M tỉnh Đồng Nai. (Có mặt) Người làm chứng:

1. chị Nguyễn Thị Thùy L, sinh năm: 1974, địa chỉ: ấp 6, xã S, huyện M, tỉnh Đồng Nai. (Vắng mặt)

2. anh Cao Văn T, sinh năm: 1983, địa chỉ: ấp 7, xã S, huyện M, tỉnh Đồng Nai; (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 25/9/2018, bị cáo Hàn Xác H điều khiển xe mô tô đi từ hướng xã L về hướng ngã tư B, trên đường liên xã L - X. Khi đi ngang qua nhà anh Cao Văn Th ngụ ấp 7, xã S, huyện M, tỉnh Đồng Nai cách ngã tư B khoảng 500m, H phát hiện bên hông trái nhà anh Th (hướng từ ngoài đường nhìn vào trong nhà) có treo 02 lồng chim bên trong có 02 con chim cu gáy, không ai trông coi nên H nảy sinh ý định trộm cắp. H dừng xe mô tô bên ngoài đường trước nhà anh Th, do cửa cổng nhà anh Th không khóa nên H đi bộ thẳng vào nơi treo lồng chim, dùng tay phải lấy trộm 02 lồng nuôi chim có 02 con chim trong lồng được móc trên sợi dây, sau đó H dùng tay trái cầm 02 lồng chim đi bộ ra ngoài đường. Khi ra đến xe mô tô H dùng tay trái cầm 02 lồng chim có 02 con chim, tay phải điều khiển xe chuẩn bị chạy đi thì lúc này anh Th phát hiện nên chạy ra dùng chân đạp vào xe H làm cho H và xe mô tô ngã xuống đường, đồng thời 02 lồng chim có 02 con chim rơi xuống đất, sau đó anh Th lao vào dùng tay phải bóp cổ H, tay trái nắm tay trái H để khống chế, H vùng dậy thì bị anh Th dùng tay trái nắm cổ áo, tay phải giơ lên định đánh H thì H rút cây kim tiêm để trong túi quần ra hù dọa anh Th. Do sợ H đâm kim tiêm nên anh Th thả H ra, chạy vào sân nhà và đóng cửa cổng lại, còn H dựng xe mô tô đứng dậy, đồng thời lấy 02 lồng chim có 02 con chim cu gáy đem về nhà cất giấu. Sau khi H bỏ đi anh Th đến Công an xã S, huyện M trình báo sự việc.

Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 27/9/2018, anh Cao Văn T (là em ruột của anh Th) và anh Trần Bá P (tên thường gọi A) đến chơi và uống rượu, lúc này anh Th có nói cho anh T và anh P biết việc bị mất trộm 02 lồng chim có 02 con chim cu gáy, đồng thời tả lại đặc điểm hình dạng của đối tượng đã trộm tài sản của mình. Vì nghi ngờ đó là H nên anh P rủ H đến nhà anh Th uống rượu để cho anh Th xác nhận có phải H là đối tượng trộm 02 con chim cu không. Khi nghe P điện thoại rủ uống rượu thì H đồng ý và đến điểm hẹn, nhưng khi đến gần nhà anh Th thì H không vào nhà mà bỏ về. Sau đó anh T gọi điện thoại cho anh Nguyễn Hoàng G kể lại sự việc trên và nhờ anh G tìm giúp chim cho anh Th. Khoảng 30 phút sau, anh Th thấy H mang 02 lồng chim bên trong có 02 con chim cu gáy đến để trước nhà Th rồi đi về. Anh Th đi ra kiểm tra thì thấy đúng là 02 lồng chim có 02 con chim cu gáy của mình nên anh Th đem vào nhà cất giữ.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 49/KL-HĐĐG ngày 04/10/2018, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Cẩm Mỹ, kết luận:

- 02 (hai) con chim cu gáy (loại chim đã trưởng thành), đều có lông màu xám, bắt ngoài tự nhiên nuôi được 03 năm có giá trị là: 1.000.000 đồng x 02 con = 2.000.000 đồng.

- 01 (một) lồng chim hình trụ tròn có đường kính 50cm, cao 30cm, các thanh dọc bằng kim loại màu trắng, các thanh ngang bằng gỗ có giá trị là 90.000 đồng.

- 01 (một) lồng chim hình trụ tròn bằng kim loại màu trắng, có đường kính 50cm, cao 40cm có giá trị là 60.000 đồng.

Tổng giá trị tài sản bị xâm hại là: 2.150.000đồng (Hai triệu một trăm năm mươi nghìn đồng).

Vật chứng của vụ án:

+ 02 (hai) con chim cu gáy (loại chim đã trưởng thành), đều có lông màu xám; 01 (một) lồng nuôi chim hình trụ tròn có đường kính 50cm, cao 30cm, các thanh dọc bằng kim loại màu trắng, các thanh ngang bằng gỗ; 01 (một) lồng nuôi chim hình trụ tròn, bằng kim loại màu trắng, có đường kính 50cm, cao 40cm.

+ Đối với chiếc xe mô tô không rõ biển số, H khai nhận xe này H mượn của một người bạn cùng làm phụ hồ tên Trần Khắc V, sau khi sử dụng làm phương tiện phạm tội thì H đã trả lại xe cho V. Hiện không rõ nhân thân lai lịch của V nên không làm việc được. Riêng cây kim tiêm H sử dụng để đe dọa anh Th, H vứt bỏ trên đường về nhà, hiện không thu hồi được.

Về trách nhiệm dân sự: anh Cao Văn Th đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì thêm.

Bản cáo trạng số: 04/CT-VKS-CM ngày 04/01/2019 của Viện kiểm sát nhân dân (sau đây viết tắt là VKSND) huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai truy tố bị cáo Hàn Xác H về tội “Cướp tài sản” theo điểm h khoản 2 Điều 168 của Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (sau đây viết tắt là BLHS).

Tại phiên tòa, đại diện VKSND huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai giữ nguyên nội dung cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử (sau đây viết tắt là HĐXX): tuyên bố bị cáo Hàn Xác H phạm tội “Cướp tài sản”; đề nghị áp dụng điểm h khoản 2 Điều 168, điểm h, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của BLHS; đề nghị xử phạt bị cáo với mức án từ 08 năm đến 09 năm tù.

Tại phiên tòa bị hại (anh Th) trình bày: Nội dung bản cáo trạng mô tả cũng như nội dung mà bị cáo H đã khai tại phiên tòa là đúng với diễn biến vụ việc. Khi thấy bị cáo H rút trong túi ra ống kim tiêm và dọa đâm thì anh sợ hãi vì nghĩ đến có thể bị lây nhiễm vi rút HIV nên vội buông bị cáo ra để chạy ngay vào nhà và chỉ dám đứng từ trong nhà nhìn bị cáo tiếp tục xách 02 lồng chim đi. Về sau nhờ một số người bạn giúp đỡ nên bị cáo H đã mang trả lại toàn bộ tài sản đã chiếm đoạt cho anh. Do bị cáo tuổi còn trẻ, nông nổi nên anh đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo H.

Những người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nên HĐXX thực hiện công bố lời khai của họ tại các bút lục: 81 -> 84.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, HĐXX nhận thấy: Điều tra viên, Kiểm sát đã tiến hành các thủ tục tố tụng và thu thập chứng cứ theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự (sau đây viết tắt là BLTTHS); đảm bảo quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố.

[2] Về sự vắng mặt của những người làm chứng tại phiên tòa, HĐXX nhận thấy: những người vắng mặt đã có lời khai đầy đủ, rõ ràng trong hồ sơ, việc vắng mặt không gây trở ngại cho việc xét xử nên tiến hành xét xử vắng mặt họ theo quy định tại Điều 293 của BLTTHS.

[3] Về hành vi phạm tội: Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa cơ bản phù hợp với các lời khai, bản cung của bị cáo đã được thu thập trong hồ sơ (BL 44 -> 53 và 94, 95), phù hợp với lời khai của bị hại, những người làm chứng cùng các tài liệu chứng cứ khác đã được thu thập trong quá trình điều tra có trong hồ sơ vụ án. Qua đó xác định được: Vào khoảng 13 giờ 30 phút ngày 25/9/2018, bị cáo Hàn Xác H đã có hành vi đột nhập vào nhà anh Cao Văn Th lấy trộm 02 lồng chim, bên trong có 02 con chim cu gáy ra khỏi cổng nhà thì bị anh Th phát hiện bắt giữ; tuy nhiên sau khi bị bắt giữ bị cáo đã có hành vi dùng ống kim tiêm đe dọa, chống trả làm cho anh Th sợ hãi, tê liệt ý chí và bị cáo tiếp tục lấy tài sản trộm cắp được rời đi; tài sản mà bị cáo đã chiếm đoạt có tổng giá trị là 2.150.000 đồng. Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Cướp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 168 của BLHS; do bị cáo có 02 tiền án chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này được xem là tái phạm nguy hiểm; do đó VKSND huyện Cẩm Mỹ truy tố bị cáo về tội “Cướp tài sản” theo điểm h khoản 2 Điều 168 là có căn cứ và đúng pháp luật.

[4] Bị cáo H là thanh niên đã trưởng thành, có đầy đủ năng lực tự điều khiển hành vi của mình; bị cáo đã 02 lần bị xét xử và phải chấp hành án phạt tù, chắc chắn bị cáo nhận thức được hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng với bản tính xem thường pháp luật, thích lấy tài sản của người khác làm tài sản riêng của mình mà bị cáo tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội với tính chất nghiêm trọng hơn. Tình tiết “Tái phạm nguy hiểm” đã được áp dụng làm tình tiết định khung hình phạt nên không coi là tình tiết tăng nặng theo quy định tại khoản 2 Điều 52 của BLHS.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét thấy bị cáo phạm tội gây thiệt hại không lớn, đã tự nguyện mang tài sản trả lại cho người bị hại trước khi bị cơ quan điều tra phát hiện xử lý; quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, thật sự ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình; ngoài ra, tại phiên tòa bị hại cũng đã nhiều lần đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; do đó HĐXX áp dụng các điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của BLHS để xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

[6] Từ những phân tích về tính chất, mức độ nguy hiểm, hành vi phạm tội cùng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, xét thấy có thể áp dụng Điều 54 của BLHS để quyết định mức hình phạt tù tương xứng đối với hành vi phạm tội của bị cáo, đủ để cải tạo bị cáo thành người công dân tốt; bên cạnh đó cũng đảm bảo tính răn đe và phòng ngừa chung trong xã hội.

[7] Về trách nhiệm dân sự: bị hại khai đã nhận lại toàn bộ tài sản bị chiếm đoạt và không yêu cầu gì thêm nên không xem xét.

[8] Về án phí: Bị cáo H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[9] Đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa phù hợp một phần với nhận định của HĐXX nên được chấp nhận một phần.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: bị cáo Hàn Xác H (C) phạm tội “Cướp tài sản”.

Áp dụng điểm h khoản 2 Điều 168; Điều 38; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 của BLHS

Xử phạt: bị cáo Hàn Xác H 05 (Năm) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bắt tạm giam: 22/10/2018.

Về án phí: Căn cứ Điều 136 của BLTTHS; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 về án phí và lệ phí Tòa án

Buộc bị cáo Hàn Xác H phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

322
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2019/HS-ST ngày 14/03/2019 về tội cướp tài sản

Số hiệu:10/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cẩm Mỹ - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về