Bản án 10/2019/HS-ST ngày 07/05/2019 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ SÔNG CẦU, TỈNH PHÚ YÊN

BẢN ÁN 10/2019/HS-ST NGÀY 07/05/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

o lúc 10 giờ 00 phút ngày 07 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã C mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 08/2019/HSST ngày 04 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo:

Phạm Xuân P – sinh năm 1990; Tên gọi khác: “P Lùn”; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn Hòa M, xã Xuân A, thị xã C, tỉnh Phú Yên; Trình độ văn hóa: 10/12; Nghề nghiệp: Làm thuê; Con ông: Phạm T – sinh năm 1956; Con bà: Lê Thị Cảnh X – sinh năm 1954; Có vợ: Trần Thị Ngọc B – sinh năm 1993; Có 01 con sinh năm 2011. Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày 20/6/2007, bị Toà án nhân dân huyện B xử phạt 01 năm tù nhưng cho hưởng án treo; thời gian thử thách 01 năm 03 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị can Phạm Xuân P bị tạm giam từ ngày 16/11/2018 đến ngày 31/01/2019 áp dụng biện pháp ngăn chặn Bảo lĩnh. Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

* Người bị hại: Anh Dương Văn D – sinh năm 1996; Trú tại: Thôn Hòa M, xã Xuân A, thị xã C, tỉnh Phú Yên. Có mặt.

* Người làm chứng:

1. Anh Tống Q – sinh năm 1996; Trú tại: Thôn Hòa P, xã Xuân H, thị xã C, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt.

2. Bà Võ Thị H – sinh năm 1951; Trú tại: Thôn Hòa M, xã Xuân A, thị xã C, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt.

3. Anh Trương Văn Nh (tên gọi khác “Mèo”) – sinh năm 1987; Trú tại: Thôn Tuyết D, xã Xuân B, thị xã C, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt.

4. Anh Nguyễn Ngọc N – sinh năm 1990; Trú tại: Thôn Hòa M, xã Xuân A, thị xã C, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt.

5. Anh Phạm Trọng L (tên gọi khác “Tí”) – sinh năm 1990; Trú tại: Thôn Hòa M, xã Xuân A, thị xã C, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 18 giờ ngày 29/9/2018, Phạm Xuân P nhậu cùng với Nguyễn Ngọc N và Phạm Trọng L thì N có nói với Phạm Xuân P về sự việc N bị Dương Văn D tìm đánh nên Phú nói với Nhã sẽ tìm D nói chuyện. Khoảng 20 giờ, cả ba đến thôn Tuyết D, xã Xuân B thì nhậu cùng với Trương Văn Nh. Đến khoảng 22 giờ 15 cùng ngày, trên đường Nh chở Phú về thì Phú nhìn thấy Dương Văn D đang ở cây xăng “Bảy Cường” thuộc Thôn Hòa M, xã Xuân A nên Phú nói Nh chạy vào khu vực cây xăng. Khi Nh vừa dừng xe thì Phú đi vào rồi lấy con dao từ trong túi quần mà Phú mang theo sẵn kê vào cổ, tay còn lại nắm tóc kéo D ra bên ngoài và nói D đưa số tiền bán xăng cho anh Tống Q (là nhân viên cây xăng Bảy Cường). Phú tiếp tục kéo D ra tại các trụ bơm xăng dầu rồi dùng tay chân đánh đá liên tiếp trúng vào người của D rồi kéo D ra đường Quốc lộ 1A thì D hỏi lý do Phú đánh và dùng hai tay ôm đầu thì Phú tiếp tục vung đánh phần cán dao trúng vào vùng tay phải D. Khi D ngước lên thì thấy Phú vung dao chém phần lưỡi dao từ trên xuống về hướng vùng đầu nên D đưa 02 tay lên đỡ thì bị lưỡi dao chém trúng mặt sau cẳng tay trái và vùng đầu của D gây thương tích. Phú dùng chân đạp làm D ngã xuống đường và khi Phú định tiếp tục đánh D thì Nh xông vào ôm giữ Phú để can ngăn và nói D bỏ chạy thì D chạy vào cây xăng và được đưa đi cấp cứu, Nh chở Phú về. (BL 18-26,34-41, 45, 52-53, 56, 59-61, 63-66, 67-70, 71-75, 77-80, 82, 87-93, 98-101, 103-104).

Tại Bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 325/TgT ngày 22/10/2018 của Trung tâm pháp y tỉnh Phú Yên kết luận: Tại thời điểm giám định thương tích của nạn nhân Dương Văn D là 15% theo phương pháp cộng lùi. Vật tác động: Vật tày + vật có cạnh sắc.

Vật chứng vụ án: 01 (một) con dao gấp xếp dài 22cm trong đó phần lưỡi dao dài 9,5cm, rộng 03cm, dày 0,2cm, mũi nhọn, được chia làm 02 đoạn (đoạn lưỡi sắc bén dài 5,5cm, đoạn hình răng cưa dài 04cm), sóng dao hình gợn sóng, lưỡi dao màu đen, in dòng chữ |MAZOMBIE; phần cán dao gồm 02 thanh kẹp dày 1,3cm, rộng nhất 4,5cm, mỗi thanh rộng 0,2cm, cuối 02 thanh dao có chốt kết nối tạo thành cán dao.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Dương Văn D và bị cáo Phạm Xuân P đã tự thỏa thuận bồi thường xong. Bị hại D có đơn bãi nại về dân sự và không yêu cầu bồi thường thêm khoản nào nữa.

Tại bản cáo trạng số: 08/CT-VKSSC ngày 01/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã C truy tố bị cáo Phạm Xuân P về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 (BLHS).

Tại phiên tòa bị cáo Phạm Xuân P khai: Ngày 29/9/2018, bị cáo nghe Nguyễn Ngọc Nhã là bạn của bị cáo nói với bị cáo về việc Nhã nợ tiền của bị hại D nhưng chưa có tiền trả, nên bị D đòi đánh, mặc dù bị hại không mâu thuẫn gì với bị cáo, nhưng bị cáo vẫn nói để Phú tìm D nói chuyện. Nên sau khi nhậu xong, trên đường Nh chở bị cáo về nhà, ngang qua cây xăng Bảy Cường phát hiện D đang bán xăng, bị cáo bảo Nh chạy vào khu vực cây xăng. Khi Nh vừa dừng xe thì bị cáo đi vào nơi bị hại D đang đứng lấy con dao trong túi quần ra kê vào cổ D, tay còn lại nắm tóc kéo D ra đường quốc lộ 1A dùng tay chân và dùng dao đánh, chém bị hại gây thương tích, thì được Nh can ngăn và chở Phú về nhà. Bị cáo khẳng định thương tích của bị hại D là do bị cáo gây ra. Do đó cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã C truy tố bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” là đúng, không oan gì cho bị cáo.

Bị hại anh Dương Văn D khẳng định: Bị hại không mâu thuẫn gì với bị cáo, nhưng bị cáo đã dùng tay, chân, dao đánh, chém gây thương tích với tỷ lệ 15%. Bị hại và bị cáo đã thỏa thuận xong phần bồi thường, bị hại không có yêu cầu gì khác và có đơn bãi nại mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa, kiểm sát viên tham gia phiên tòa trình bày luận tội: Giữ nguyên cáo trạng số 08/CT-VKS ngày 01/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã C truy tố bị cáo Phạm Xuân P về tội “Cố ý thương tích”. Căn cứ tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội , tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm, nhân thân của bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) tuyên bố bị cáo Phạm Xuân P phạm tội “Cố ý gây thương tích”. Áp dụng Điểm đ Khoản 2 Điều 134; Điểm b, s, u khoản 1, 2 Điều 51, Điều 54, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Phạm Xuân P từ 09 đến 12 tháng tù,thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giam từ ngày 16/11/2018 đến ngày 31/01/2019. Về hình phạt bổ sung: Không.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại và bị cáo đã thỏa thuận bồi thường xong không yêu cầu nên đề nghị HĐXX không xem xét.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, khoản 1 Điều 46; điểm a, khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự (BLHS) năm 2015 và điểm a, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (BLTTHS). Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu, tiêu hủy 01 (một) con dao gấp xếp dài 22cm trong đó phần lưỡi dao dài 9,5cm, rộng 03cm, dày 0,2cm, mũi nhọn, được chia làm 02 đoạn (đoạn lưỡi sắc bén dài 5,5cm, đoạn hình răng cưa dài 04cm), sóng dao hình gợn sóng, lưỡi dao màu đen, in dòng chữ |MAZOMBIE; phần cán dao gồm 02 thanh kẹp dày 1,3cm, rộng nhất 4,5cm, mỗi thanh rộng 0,2cm, cuối 02 thanh dao có chốt kết nối tạo thành cán dao là công cụ bị cáo dùng vào việc phạm tội.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo rất ăn năn, hối cải về việc bị cáo đã vi phạm, bị cáo xin hứa sẽ không tái phạm đồng thời xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố Cơ quan Công an, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên thị xã C đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những bị hại không có người nào ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về sự vắng mặt người làm chứng: Qúa trình điều tra đã có lời khai và việc vắng mặt của người làm chứng không trở ngại gì cho việc xét xử vụ án.

[3] Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Xuân P đã khai nhận hành vi phạm tội đúng như cáo trạng đã nêu, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng, kết luận giám định pháp, vật chứng đủ cơ sở kết luận: Chính bị cáo Phạm Xuân P vô cớ dùng tay, chân và dao đánh, chém bị hại D bị thương tích 15% hồi khoảng 22 giờ 15 phút ngày 29/9/2018, tại Thôn Hòa M, xã Xuân A, thị xã C, tỉnh Phú Yên. Đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ, khoản 2 Điều 134 BLHS năm 2015.

[4] Do đó, quyết định truy tố tại bản cáo trạng số 08/CT-VKSSC ngày 01/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã C và lời luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa là hoàn D có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan gì cho bị cáo.

[5] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến sức khỏe của người khác một cách trái pháp luật, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Mặc dù giữa bị hại và bị cáo không có mâu thuẫn gì, nhưng với bản chất hung hăng, xem thường pháp luật, vô cớ dùng tay, chân đấm, đá và dùng dao chém gây thương tích cho bị hại là thuộc trường hợp dùng hung khí nguy hiểm và có tính chất côn đồ. Bị cáo có nhân thân xấu. Nên nhất thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm.

Xét bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bồi thường đầy đủ cho bị hại, được bị hại bãi nại và xin giảm nhẹ; đồng thời, trong quá trình tạm giam để điều tra vụ án bị cáo đã lập công chuộc tội và được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã C có Công văn số 302/CV-CSĐT ngày 20/3/2019 đề nghị áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ tại điểm u, khoản 1, Điều 51 BLHS năm 2015 đối với bị cáo, nên áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự, xét giảm cho bị cáo phần nào về hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà an tâm cải tạo.

[6] Xét lời đề nghị của kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử chấp nhận [7] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã thỏa thuận bồi thường cho bị hại xong, bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm khoản nào khác nên HĐXX không xem xét.

[9] Về vật chứng vụ án gồm: 01 (một) con dao gấp xếp dài 22cm trong đó phần lưỡi dao dài 9,5cm, rộng 03cm, dày 0,2cm, mũi nhọn, được chia làm 02 đoạn (đoạn lưỡi sắc bén dài 5,5cm, đoạn hình răng cưa dài 04cm), sóng dao hình gợn sóng, lưỡi dao màu đen, in dòng chữ |MAZOMBIE; phần cán dao gồm 02 thanh kẹp dày 1,3cm, rộng nhất 4,5cm, mỗi thanh rộng 0,2cm, cuối 02 thanh dao có chốt kết nối tạo thành cán dao là của bị cáo dùng khi phạm tội nên HĐXX cần tịch thu tiêu huỷ.

[10] Về án phí: Bị cáo Phạm Xuân P phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Phạm Xuân P phạm tội “Cố ý gây thương tích”;

Áp dụng: Điểm đ Khoản 2 Điều 134; Điểm b, s, u khoản 1, 2 Điều 51, Điều 54, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Xuân P 01 năm (Một năm) tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giam từ ngày 16/11/2018 đến ngày 31/01/2019.

2.Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã thỏa thuận bồi thường cho bị hại xong, bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm khoản nào khác nên HĐXX không xem xét.

3. Về vật chứng: Áp dụng điểm a, khoản 1 Điều 46; điểm a, khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và điểm a, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tch thu tiêu huỷ vật chứng gồm: 01 (một) con dao gấp xếp dài 22cm trong đó phần lưỡi dao dài 9,5cm, rộng 03cm, dày 0,2cm, mũi nhọn, được chia làm 02 đoạn (đoạn lưỡi sắc bén dài 5,5cm, đoạn hình răng cưa dài 04cm), sóng dao hình gợn sóng, lưỡi dao màu đen, in dòng chữ |MAZOMBIE; phần cán dao gồm 02 thanh kẹp dày 1,3cm, rộng nhất 4,5cm, mỗi thanh rộng 0,2cm, cuối 02 thanh dao có chốt kết nối tạo thành cán dao theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 04/3/2019 giữa cơ quan Thi hành án dân sự thị xã C và Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã C.

4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Buộc bị cáo Phạm Xuân P phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo : Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2019/HS-ST ngày 07/05/2019 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:10/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Sông Cầu - Phú Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về