Bản án 10/2019/HNGĐ-ST ngày 23/06/2019 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG PHÚ, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 10/2019/HNGĐ-ST NGÀY 23/06/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 23 tháng 6 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 316/2018/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 12 năm 2018 về “tranh chấp ly hôn và nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 23/2019/QĐXXST-DS ngày 14 tháng 5 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Trần Thị Thu T; sinh năm 1999; địa chỉ đăng ký thường trú: Ấp B, xã H, huyện P, tỉnh Sóc Trăng; chỗ ở hiện nay: Ấp A, xã h, huyện p, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

2. Bị đơn: Ông Sơn Lâm Nhật T; sinh năm 1994; địa chỉ: Ấp B, xã h, huyện p, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Trong đơn khởi kiện lập ngày 07/12/2018 và đơn đề nghị xét xử vắng mặt lập ngày 19/6/2019 bà Trần Thị Thu T trình bày: Vào năm 2015 bà T và ông Sơn Lâm Nhật T tự nguyện chung sống với nhau, đến năm 2017 đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã h, huyện p, tỉnh Sóc Trăng cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 121/2017, ngày 12/10/2017. Trong thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến tháng 3/2017 bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng ý kiến trong nên cuộc sống không còn hạnh phúc, bà T và ông T sống ly thân từ tháng 10/2017 cho đến nay, sau khi sống ly thân thì bà T và ông T có gặp nhau nhưng không thể hàn gắn tình cảm vợ chồng. Trong thời gian chung sống, bà T và ông T có 01 người con chung là Sơn Trần Thiên H, sinh ngày 24/02/2017 hiện nay sống chung với bà T; về tài sản chung và nợ chung không có.

Bà Trần Thị Thu T yêu cầu ly hôn với ông Sơn Lâm Nhật T; yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung đến khi thành niên và không yêu cầu ông T cấp dưỡng cho con chung; về tài sản chung và nợ chung: Không có nên bà T không yêu cầu gì.

- Đối với bị đơn ông Sơn Lâm Nhật T: Sau khi Tòa án thụ lý vụ án đã tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án cho ông T, nhưng ông T không có ý kiến phản đối gì. Tòa án đã triệu tập hợp lệ ông T 02 lần để tham gia tố tụng tại phiên hòa giải nhưng ông T vẫn vắng mặt nên Tòa án đã lập biên bản về việc không T hành hòa giải được. Bị đơn ông Sơn Lâm Nhật T đã được triệu tập hợp lệ để tham gia tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do.

- Tại phiên tòa, Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Phú tham gia phiên tòa trình bày ý kiến: Việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp và xác định tư cách của người tham gia tố tụng trong vụ án là đúng quy định của pháp luật; việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, qua thẩm tra các chứng cứ và kết quả tranh luận tại phiên tòa xét thấy tình trạng của vợ chồng bà Trần Thị Thu T và ông Sơn Lâm Nhật T đã trở nên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điêu 39, khoản 2 Điều 92, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Trần Thị Thu T; giao cháu Sơn Trần Thiên H cho bà Trần Thị Thu T trực tiếp nuôi dưỡng, ông T không cấp dưỡng cho con chung; về tài sản chung và nợ chung: Không có nên không đặt ra xem xét; bà T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Nguyên đơn bà Trần Thị Thu T và bị đơn ông Sơn Lâm Nhật T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt tại phiên tòa; bà T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; ông T vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228, khoản 3 Điều 235 và Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bà T và ông T.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Xét thấy, bà Trần Thị Thu T và ông Sơn Lâm Nhật T tự nguyện kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã h, huyện p, tỉnh Sóc Trăng cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 121/2017, ngày 12/10/2017 nên quan hệ hôn nhân giữa bà T và ông T là hợp pháp, được pháp luật công nhận. Căn cứ vào khoản 1 Điều 51 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, bà T có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Xét lý do yêu cầu ly hôn của bà T, Hội đồng xét xử xét thấy: Bà T cho rằng nguyên nhân do vợ chồng bất đồng ý kiến trong cuộc sống nên cuộc sống không còn hạnh phúc và sau khi sống ly thân thì bà T và ông T có gặp nhau nhưng không thể hàn gắn tình cảm. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tổ chức phiên hòa giải để động viên vợ chồng bà T và ông T đoàn tụ với nhau nhưng ông T vẫn vắng mặt và bà T vẫn kiên quyết ly hôn với ông T vì tình cảm vợ chồng không còn. Như vậy, tình trạng của vợ chồng bà T và ông T đã trở nên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, xét việc bà T xin ly hôn với ông T là có căn cứ và phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận cho bà T được ly hôn với ông T.

[3] Về con chung: Bà Trần Thị Thu T xác định trong thời gian chung sống, bà T và ông Sơn Lâm Nhật T có 01 người con chung là Sơn Trần Thiên H, sinh ngày 24/02/2017 sống chung với bà T; bà T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung đến khi thành niên. Xét thấy, từ khi bà T và ông T sống ly thân cho đến nay cháu H do bà T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của cháu H, Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải giao cháu H cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại các điều 81, 82 và 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Ngoài ra, căn cứ vào khản 3 Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử dành quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung cho ông T mà không ai được cản trở.

[4] Về việc cấp dưỡng nuôi con: Bà Trần Thị Thu T không yêu cầu cấp dưỡng cho con chung nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Bà Trần Thị Thu T xác định trong thời gian chung sống bà T và ông Sơn Lâm Nhật T không có tài sản chung và không có nợ chung nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[6] Từ những phân tích nêu trên, xét đề nghị của Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Phú là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Về án phí: Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Bà Trần Thị Thu T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Ông Sơn Lâm Nhật T không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228, khoản 3 Điều 235, Điều 238, Điều 271, khoản 1 Điều 273 và khoản 1 Điều 280 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị Thu T.

1.1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị Thu T được ly hôn với ông Sơn Lâm Nhật T.

1.2. Về con chung: Giao cháu Sơn Trần Thiên H, sinh ngày 24/02/2017 cho bà Trần Thị Thu T trực tiếp nuôi dưỡng đến khi thành niên; ông Sơn Lâm Nhật T không phải cấp dưỡng cho con chung. Dành quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung cho ông T mà không ai được cản trở.

1.3. Về tài sản chung và nợ chung: Bà Trần Thị Thu T xác định không có tài sản chung và không có nợ chung nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Trần Thị Thu T phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0006931 ngày 21/12/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng; như vậy, bà Trần Thị Thu T đã nộp xong án phí dân sự sơ thẩm. Ông Sơn Lâm Nhật T không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Nguyên đơn và bị đơn đều vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo được tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày tống đạt hợp lệ bản án theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2019/HNGĐ-ST ngày 23/06/2019 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

Số hiệu:10/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Phú - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về