Bản án 10/2019/HNGĐ-ST ngày 23/04/2019 về kiện ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN EA H’LEO, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 10/2019/HNGĐ-ST NGÀY 23/04/2019 VỀ KIỆN LY HÔN

Ngày 23/4/2019 tại phòng xử án, Toà án nhân dân huyện Ea H’Leo mở phiên toà xét xử công khai vụ án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm thụ lý số 365/2018/TLST-HNGĐ ngày 19/12/2018 về việc “Kiện ly hôn”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2019/QĐST-HNGĐ ngày 19/03/2019 và quyết định hoãn phiên tòa số 01/2019/QĐST-HNGĐ ngày 04/4/2019, giữa: Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Như D; sinh năm 1990. Có mặt. Nơi cư trú: Thôn a, xã N, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. Chỗ ở hiện nay: Buôn E, xã C, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

Bị đơn: Anh Nguyễn Văn Ngh; sinh năm 1992. Vắng mặt lần thứ hai không có lý. Nơi cư trú: Thôn a, xã N, huyện E, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa chị D là nguyên đơn trình bày:

Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Như D và anh Nguyễn Văn Ngh về sống chung với nhau từ năm 2014, có đăng ký kết hôn tại UBND xã N, huyện E, tỉnh Đăk Lăk, kết hôn là hoàn toàn tự nguyện, sau khi về sống chung vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn.

Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình không hợp và anh Ngh không quan tâm gì đến vợ con, chị D khuyên can thì anh Ngh đánh đập chị D. Đến tháng 9/2018 thì chị D và anh Ngh sống ly thân với nhau, hiện cuộc sống không thể kéo dài được nữa, nên chị D yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh Ngh.

Về con chung: Chị D và anh Ngh có 01 con chung là Nguyễn L - sinh ngày 28/01/2016, nếu ly hôn chị D có nguyện vọng nuôi con và không yêu cầu cấp dưỡng.

Về tài sản và nợ chung: Chị D không yêu cầu giải quyết về tài sản và nợ chung, nên không đề cập xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1]. Pháp luật về tố tụng: Chị Nguyễn Thị Như D và anh Nguyễn Văn Ngh về sống chung với nhau từ năm 2014, đăng ký kết hôn ngày 15/4/2016 tại UBND xã N theo giấy đăng ký kết hôn số 39. Trong quá trình sống chung hai người thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nên chị D khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh Ngh, Toà án thụ lý giải quyết là phù hợp khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành triệu tập các đương sự đến Tòa án để công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng anh Ngh vẫn vắng mặt không có lý do, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án, nên Tòa án không thể tiến hành công khai chứng cứ và hòa giải giữa các đương sự được mà tiến hành xác minh, niêm yết các văn bản tố tụng tại nơi anh Ngh cư trú. Theo quy định tại khoản 1 Điều 207, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án không tiến hành hòa giải được và tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2]. Pháp luật về nội dung:

Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Như D và anh Nguyễn Văn Ngh về sống chung với nhau từ năm 2014, đăng ký kết hôn tại UBND xã N, huyện E. Sau một thời gian sống chung hạnh phúc, thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình không hợp và anh Ngh sống thiếu trách nhiệm với vợ con, nên thường xuyên cãi vã, đánh đập nhau, hiện chị D không còn tình cảm gì với anh Ngh, cuộc sống của vợ chồng không thể kéo dài được nữa, nên chị D yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị D được ly hôn với anh Ngh.

Căn cứ vào lời khai của đương sự và qua xác minh tại chính quyền địa phương thì chị D và anh Ngh thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, hiện tại hai người đã sống ly thân. Do đó, xét thấy mâu thuẫn giữa chị D và anh Ngh ngày càng trầm trọng, giữa hai người không còn thương yêu, chăm sóc, quý trọng lẫn nhau, thực tế hôn nhân không còn tồn tại. Vì vậy, việc chị D yêu cầu ly hôn với anh Ngh là có căn cứ, nên cần chấp nhận.

Về con chung: Chị D, anh Nghị có 01 người con chung là Nguyễn L – sinh ngày 28/01/2016. Hội đồng xét xử nhận thấy, xét nguyện vọng nuôi con chung của chị D và hiện con chung đang còn nhỏ, cần giao con chung cho chị D trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi là phù hợp.

Về cấp dưỡng nuôi con: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa chị D không yêu cầu anh Ngh cấp dưỡng nuôi con, nên không đề cập giải quyết.

Anh Ngh có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở. Vì lợi ích của con chung các bên có quyền yêu cầu thay đổi việc nuôi con chung và mức cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản và nợ chung: Chị D không yêu cầu giải quyết về tài sản và nợ chung, nên không đề cập giải quyết.

[3]. Về án phí: Chị D phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 53; khoản 1 Điều 56; Điều 57 Luật hôn nhân và gia đình;

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị Như D được ly hôn với anh Nguyễn Văn Ngh.

2. Về nuôi con chung: Căn cứ vào Điều 58; Điều 81; Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình;

2.1. Giao con chung Nguyễn L – sinh ngày 28/01/2016 cho chị D trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng, cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

2.2. Hiện tại chị D không yêu cầu anh Nghị cấp dưỡng nuôi con, nên không đề cập giải quyết.

Anh Ngh có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở. Vì lợi ích của con chung các bên có quyền yêu cầu thay đổi việc nuôi con chung và mức cấp dưỡng nuôi con chung.

3. Về tài sản và nợ chung: Chị D không yêu cầu giải quyết về tài sản và nợ chung, nên không đề cập xem xét.

4. Về án phí: Căn cứ vào khoản 3 Điều 144; khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ vào khoản 5 Điều 19; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTUQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định án phí, lệ phí tòa án;

Chị Nguyễn Thị Như D phải chịu 300.000 đồng tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Ea H’Leo theo biên lai số AA/2017/0008961 ngày 18/12/2018.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 271; khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

409
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2019/HNGĐ-ST ngày 23/04/2019 về kiện ly hôn

Số hiệu:10/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ea H'leo - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về