Bản án 10/2019/HNGĐ-ST ngày 19/03/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 10/2019/HNGĐ-ST NGÀY 19/03/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 19 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 2425/2018/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 12 năm 2018, về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 02 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn : Bà Vũ Thị Ngọc H, sinh năm 1977

Thường trú: 393/37, khu phố 7, phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

Tạm trú: 2/33, khu phố 8A, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

- Bị đơn Ông Phạm Quang D, sinh năm 1974 

Thường trú: 393/37, khu phố 7, phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

(Bà H và ông D có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện, bản tự khai nguyên đơn bà Vũ Thị Ngọc H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Phạm Quang D kết hôn vào năm 2011 tại Ủy ban nhân dân phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai và đã được cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 31/8/2011.

Quá trình vợ chồng chung sống H phúc thời gian đầu, sau đó thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do ông D không quan tâm, chăm lo tới gia đình. Quan điểm của hai vợ chồng không đồng nhất, vợ chồng thường xuyên cãi vã, không tôn trọng lẫn nhau. Vì thương con và không muốn gia đình đổ vỡ nên bà đã nhiều lần hàn gắn nhưng không có kết quả. Bà và ông D sống ly thân từ tháng 01 năm 2017 cho đến nay. Nay bà xác định tình cảm không còn, bà xin ly hôn với ông Phạm Quang D.

Về con chung: Quá trình vợ chồng chung sống bà và ông D có 01 con chung cháu Phạm Vũ Quang Đ, sinh ngày 06/7/2012. Ly hôn bà xin được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Đ vì từ trước tới nay cháu Đ vẫn luôn sống cùng mẹ. Tạm thời bà không yêu cầu ông D phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Bà H khai bà và ông D không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Bà H khai bà và ông D không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Theo bản tự khai - Bị đơn Ông Phạm Quang D trình bày: ông đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng ông D vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, sau khi Tòa án đưa vụ án ra xét xử thì ông D mới có văn bản trình bày ý kiến: Vì lý do ông là người theo đạo công giáo nên không được phép ly hôn, hiện nay ông đang đăng ký thường trú và sinh sống tại địa chỉ 393/37, khu phố 7, phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai, còn bà H và cháu Đ đang sống cùng nhau tại nhà mẹ ruột của bà H tại phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Ngoài ra, ông không trình bày gì thêm và đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.

Ý kiến của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố B:

Về việc kiểm sát chấp hành pháp luật tố tụng: Về quan hệ pháp luật, tư cách đương sự và thẩm quyền giải quyết, Tòa án đã xác định đúng theo quy định pháp luật. Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án đảm bảo theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự. Tòa án đã tiến hành đầy đủ các thủ tục theo quy định pháp luật.

Về việc giải quyết tranh chấp:

- Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ Điều 9, 11, 12 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000; Điều 55, 57, 58, 59 và Điều 131 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận cho bà Vũ Thị Ngọc H được ly hôn với ông Phạm Quang D.

- Về quan hệ con chung: Bà H và ông D có 01 con chung cháu Phạm Vũ Quang Đ, sinh ngày 06/7/2012. Ly hôn, giao cho bà H được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Đ. Tạm thời ông D không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung và nợ chung: Theo bà Vũ Thị Ngọc H trình bày, bà và ông D không có tài sản chung và nợ chung. Nhưng do ông Phạm Quang D không trình bày nội dung về tài sản chung và nợ chung nên Tòa án chưa ghi nhận được ý kiến, vì vậy, sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác khi các đương sự có yêu cầu.

Về án phí: Bà Vũ Thị Ngọc H phải chịu án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng:

- Bà Vũ Thị Ngọc H khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Phạm Quang D; Căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xác định quan hệ pháp luật của vụ án là “Tranh chấp ly hôn”. Căn cứ vào Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự xác định bà Vũ Thị Ngọc H là nguyên đơn còn ông Phạm Quang D là bị đơn trong vụ án.

- Theo bản sao y chứng thực sổ hộ khẩu và tại Bản tự khai, đơn xin vắng mặt ngày 11/3/2019, ông Phạm Quang D xác định hiện nay ông có đăng ký thường trú và đang sinh sống tại địa chỉ 393/37, khu phố 7, phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Do đó, căn cứ các Điều 28, 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự xác định vụ kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

- Ngày 01/3/2019, bà Vũ Thị Ngọc H có đơn xin xét xử vắng mặt, nên Tòa án xét xử vắng mặt bà H theo quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Tòa án nhân dân thành phố B tống đạt, niêm yết thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập đương sự, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải cho bị đơn ông Phạm Quang D để làm việc, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải theo quy định của pháp luật nhưng ông Phạm Quang D vẫn vắng mặt không có lý do. Ngày 11/3/2019, ông D có văn bản trình bày ý kiến và có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa nên theo quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt ông D.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà H và ông D tự nguyện kết hôn vào năm 2011 tại Ủy ban nhân dân phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai và đã được cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 31/8/2011. Do đó, cần áp dụng các quy định tại Điều 9, Điều 11, Điều 12 Luật Hôn nhân gia đình năm 2000, xác định đây là hôn nhân hợp pháp. Quá trình vợ chồng chung sống H phúc thời gian đầu, sau đó thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do ông D không quan tâm, chăm lo tới gia đình. Quan điểm của hai vợ chồng không đồng nhất, vợ chồng thường xuyên cãi vã, không tôn trọng lẫn nhau. Vì thương con và không muốn gia đình đổ vỡ nên bà đã nhiều lần hàn gắn nhưng không có kết quả. Bà và ông D sống ly thân từ tháng 01 năm 2017 cho đến nay. Nay bà xác định tình cảm không còn, bà xin ly hôn với ông Phạm Quang D. Xét yêu cầu ly hôn của bà H là có cơ sở chấp nhận, bởi lẽ theo quy định tại Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì vợ chồng có nghĩa vụ yêu thương, quý trọng chăm sóc giúp đỡ lẫn nhau để cùng xây dựng gia đình H phúc. Nhưng theo bà H trình bày bà và ông D chung sống phát sinh nhiều mâu thuẫn nên đã ly thân từ tháng 01 năm 2017 đến nay. Theo Biên bản xác minh mâu thuẫn vợ chồng của Ủy ban nhân dân phường H ngày 28/01/2019 và lời trình bày của ông D xác định, hiện tại chỉ có ông D sinh sống tại địa chỉ 393/37, khu phố 7, phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai, còn bà H và cháu Đ đang sinh sống tại nhà người thân của bà H ở phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai từ khoảng tháng 01 năm 2017 đến nay. Như vậy, thể hiện việc mâu thuẫn trong tình cảm vợ chồng giữa bà H và ông D là có thật, mục đích hôn nhân không đạt được, vợ chồng không còn chung sống, không còn quan tâm, yêu thương, chăm sóc lẫn nhau từ hơn 01 năm nay. Do đó, Tòa án căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận cho bà Vũ Thị Ngọc H được ly hôn với ông Phạm Quang D.

[3] Về con chung: Quá trình chung sống bà H và ông D có 01 con chung là cháu Phạm Vũ Quang Đ, sinh ngày 06/7/2012. Khi ly hôn, bà H yêu cầu được nuôi cháu Đ, không yêu cầu ông D phải cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử xét thấy, hiện nay cháu Đ đang ở với bà H, do bà H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Do đó, để ổn định về việc học tập và sinh hoạt cho cháu Đ, Tòa án chấp nhận yêu cầu của bà H, giao cháu Đ cho bà H chăm sóc, nuôi dưỡng, tạm thời ông D không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Ông D được quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở. Vì quyền lợi của con chung, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Theo bà Vũ Thị Ngọc H trình bày, bà và ông D không có tài sản chung và nợ chung. Nhưng do ông Phạm Quang D không trình bày nội dung về tài sản chung và nợ chung nên Tòa án chưa ghi nhận được ý kiến, vì vậy, sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác khi các đương sự có yêu cầu.

[5] Về án phí: Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bà Vũ Thị Ngọc H phải nộp 300.000 đồng án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 228, Điều 266, Điều 271 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Áp dụng các Điều 9; Điều 11; Điều 12 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000;

- Áp dụng Điều 19, Điều 53, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, khoản 1 Điều 131 Luật Hôn nhân và gia đình 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Vũ Thị Ngọc H, bà Vũ Thị Ngọc H được ly hôn với ông Phạm Quang D.

Về con chung: Giao cháu Phạm Vũ Quang Đ, sinh ngày 06/7/2012 cho bà Vũ Thị Ngọc H chăm sóc, nuôi dưỡng, tạm thời ông Phạm Quang D không phải cấp dưỡng nuôi con. Ông D được quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở. Vì quyền lợi của con chung, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Khi ly hôn, bà H xác định về tài sản chung và nợ chung không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do Tòa án chưa ghi nhận được ý kiến của ông D nên được giải quyết bằng một vụ án khác khi các đương sự có yêu cầu.

Về án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Vũ Thị Ngọc H phải nộp 300.000đ án phí, được trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai số 009510 ngày 01/11/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B. Bà H đã nộp đủ án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm Bà Vũ Thị Ngọc H và ông Phạm Quang D có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2019/HNGĐ-ST ngày 19/03/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:10/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về