Bản án 10/2019/HNGĐ-ST ngày 17/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH SƠN, TỈNH QUẢNG NGÃI

BẢN ÁN 10/2019/HNGĐ-ST NGÀY 17/08/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 17 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 72/2019/TLST-HNGĐ, ngày 13 tháng 3 năm 2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 58/2019/QĐXXST-HNGĐ, ngày 29 tháng 7 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Nguyễn Văn L, sinh năm 1974;

Trú tại: Thôn T, xã B, huyện B, tỉnh Q.

2. Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Th, sinh năm 1982;

Nơi cư trú cuối cùng: Thôn T, xã B, huyện B, tỉnh Q.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 04/3/2019, bản tự khai ngày 13/3/2019 và quá trình tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn anh Nguyễn Văn L trình bày:

Anh và chị Nguyễn Thị Th tự nguyện đăng ký kết hôn tại UBND xã B, huyện B, tỉnh Q vào ngày 12/01/2001. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hạnh phúc. Đến tháng 4/2015, vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân anh phát hiện vợ anh có quan hệ ngoại tình với người đàn ông khác, anh có khuyên bảo nhưng vợ anh không nghe. Kể từ đó, vợ chồng chung sống không được hạnh phúc, nhiều lần lời qua tiếng lại. Chị Nguyễn Thị Th đã bỏ nhà đi khỏi địa phương từ ngày 08/02/2016 cho đến nay. Anh nhiều lần liên lạc và tìm kiếm nhưng không có kết quả. Từ ngày 08/02/2016 cho đến nay, anh không biết chị Nguyễn Thị Th đi đâu, làm gì. Anh có làm đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố mất tích đối với chị Th. Ngày 07/11/2018, Tòa án nhân dân huyện B có quyết định số 07/2018/QĐST-DS tuyên bố mất tích đối với chị Nguyễn Thị Th. Từ ngày Tòa án ban hành quyết định tuyên bố chị Th mất tích, anh L không biết chị Th ở đâu và cũng không có tin tức gì về chị Th. Nay anh yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh ly hôn với người mất tích là chị Nguyễn Thị Th.

Về con chung: Vợ chồng có 03 con chung tên là Nguyễn Thị Ánh T, sinh ngày 10/11/2001, Nguyễn Thị Hồng Nh, sinh ngày 21/7/2004, Nguyễn Hữu Nh, sinh ngày 02/01/2013, hiện nay đang sống với anh. Khi ly hôn, anh có nguyện vọng được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng 03 con chung, chưa yêu cầu chị Th cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chưa yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Không có.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh Q tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa; việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Thị Ánh T, Nguyễn Thị Hồng Nh, Nguyễn Hữu Nh cho anh L trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Về nghĩa vụ cấp dưỡng: Anh Nguyễn Văn L không yêu cầu nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Nguyễn Thị Th đã bị Tòa án tuyên bố đã mất tích nhưng các thủ tục đều được niêm yết hợp lệ nơi đương sự cư trú cuối cùng theo đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Do đó Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bị đơn chị Nguyễn Thị Th là có căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Ngày 12/01/2001, anh Nguyễn Văn L và chị Nguyễn Thị Th đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện B, tỉnh Q nên quan hệ hôn nhân của vợ chồng anh chị là hợp pháp. Quá trình chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Chị Th đã bỏ địa phương đi từ ngày 08/02/2016 đến nay không có tin tức gì. Ngày 07/11/2018, Tòa án nhân dân huyện B có quyết định số 07/2018/QĐST – DS tuyên bố mất tích đối với chị Nguyễn Thị Th. Xét thấy, tình trạng mâu thuẫn giữa anh L và chị Th là trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Chị Th đã bị Tòa án tuyên bố mất tích nên cần chấp nhận yêu cầu của anh L về việc xin ly hôn với chị Nguyễn Thị Th theo quy định tại khoản 2 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình và khoản 2 Điều 68 Bộ luật dân sự.

[3] Về con chung: Anh Nguyễn Văn L và chị Nguyễn Thị Th có 03 người con chung là Nguyễn Thị Ánh T, sinh ngày 10/11/2001, Nguyễn Thị Hồng Nh, sinh ngày 21/7/2004, Nguyễn Hữu Nh, sinh ngày 02/1/2013, hiện đang sống với anh L. Từ ngày chị Th bỏ đi đến nay, anh L là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng các cháu. Do vậy để đảm bảo quyền lợi, cuộc sống ổn định cho các cháu nên Hội đồng xét xử xét thấy cần giao các cháu Nguyễn Thị Ánh T, Nguyễn Thị Hồng Nh, Nguyễn Hữu Nh cho anh Nguyễn Văn L tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp theo quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về nghĩa vụ cấp dưỡng: Anh Nguyễn Văn L không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[5] Về tài sản chung: Anh Nguyễn Văn L chưa yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[6] Về nợ chung: Anh Nguyễn Văn L xác định giữa anh và chị Nguyễn Thị Th không có nợ chung cũng như không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[7] Về án phí: Anh Nguyễn Văn L phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm không có giá ngạch là: 300.000đồng (ba trăm ngàn đồng) theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội nhưng anh được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

[8] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B phù hợp với nhận định trên, được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 235, Điều 266, Điều 267 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ vào Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Căn cứ Điều 51, khoản 2 Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 2 Điều 68 Bộ luật dân sự;

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Văn L được ly hôn với chị Nguyễn Thị Th.

2. Về con chung: Giao con chung là Nguyễn Thị Ánh T, sinh ngày 10/11/2001, Nguyễn Thị Hồng Nh, sinh ngày 21/7/2004, Nguyễn Hữu Nh, sinh ngày 02/1/2013 cho anh Nguyễn Văn L tiếp tục trực tiếp sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Nguyễn Văn L không yêu cầu chị Nguyễn Thị Th cấp dưỡng nuôi con.

Chị Nguyễn Thị Th có quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở. Khi cần thiết một trong hai bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con chung hoặc mức cấp dưỡng nuôi con chung.

3. Về tài sản chung: Chưa yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về nợ chung: Không có.

5. Về án phí: Anh Nguyễn Văn L phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm không có giá ngạch là: 300.000đồng (ba trăm ngàn đồng), nhưng được khấu trừ toàn bộ số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2016/0002596 ngày 12/3/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện B, tỉnh Q.

Anh Nguyễn Văn L có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (17/8/2019). Chị Nguyễn Thị Th vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2019/HNGĐ-ST ngày 17/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:10/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Sơn - Quảng Ngãi
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về