Bản án 10/2019/HNGĐ-ST ngày 17/04/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 10/2019/HNGĐ-ST NGÀY 17/04/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 17 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 01/2019/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 01 năm 2019 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 87/2019/QĐXXST-HNGĐ  ngày 14 tháng 3 năm 2019, Quyết định hoãn phiên tòa số 131/2019/QĐST-HNGĐ ngày 03 tháng 4 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Hoàng Sỹ A; nơi cư trú: Số 27/464 C, phường D, Quận L, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

- Bị đơn: Chị Đỗ Thị Bích T, nơi ĐKHKTT: Số 27/464 C, phường D, Quận L, thành phố Hải Phòng; nơi ỏ: Số 32/24/231 T, phường N, Quận L, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn anh Hoàng Sỹ A trình bày: Anh và chị T xây dựng gia đình với nhau trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu nhau, có đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 80 ngày 02/8/2016 tại Ủy ban nhân dân phường D, Quận L, thành phố Hải Phòng. Đến nay, vợ chồng không có con chung.

Quá trình chung sống, vợ chồng hòa thuận đến cuối năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng về quan điểm sống, tính cách không phù hợp dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã. Mâu thuẫn của vợ chồng đã được gia đình hai bên hòa giải nhưng không có kết quả. Thực tế đến nay, hai bên đã sống ly thân không còn quan tâm đến nhau nữa. Nay anh Sỹ A xác định tình cảm giữa anh và chị T không còn, mâu thuẫn đã trầm trọng, cuộc sống chung không có hạnh phúc nên đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị T.

- Về con chung: Vợ chồng không có con chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, anh Sỹ A vắng mặt nhưng có đơn đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải và tại phiên tòa, anh Sỹ A vắng mặt nhưng có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt đồng thời thể hiện vẫn giữ nguyên quan điểm như đơn khởi kiện.

Tại phiên tòa, chị Đỗ Thị Bích T vắng mặt. Trong quá trình giải quyết vụ án đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, giấy báo, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử và quyết định hoãn phiên tòa nhưng chị T vắng mặt không có lý do.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng phát biểu quan điểm:

Về tố tụng: Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến thời điểm này thấy rằng, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã chấp hành đầy đủ quy định của pháp luật. Bị đơn đã không chấp hành đầy đủ quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án: Đề nghị HĐXX căn cứ vào các điều 8, 9, 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn:

- Về quan hệ hôn nhân: Cho anh Hoàng Sỹ A được ly hôn chị Đỗ Thị Bích T.

- Về con chung: Hai bên không có con chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đề nghị xem xét.

- Về tài sản chung: Hai bên không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đề nghị xem xét.

- Về án phí: Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc anh Sỹ A phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí  ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn anh Hoàng Sỹ A vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Bị đơn chị Đỗ Thị Bích T vắng mặt tại phiên tòa không có lý do mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ lần thứ hai. Theo quy định tại Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh Sỹ Anh và chị T.

 [2] Về thẩm quyền giải quyết: Theo đơn khởi kiện xin ly hôn và biên bản làm việc ngày 26/02/2019 thể hiện chị T hiện tạm trú tại số 32/24/231 T, phường N, Quận L, thành phố Hải Phòng. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng.

- Về quan hệ hôn nhân:

 [3] Việc kết hôn giữa anh Hoàng Sỹ A và chị Đỗ Thị Bích T tuân thủ đúng quy định tại các điều 8, 9 Luật Hôn nhân và gia đình nên là hôn nhân hợp pháp.

 [4] Trong quá trình giải quyết vụ án, anh Sỹ A trình bày: Quá trình chung sống, vợ chồng hòa thuận đến cuối năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng về quan điểm sống, tính cách không phù hợp dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã. Mâu thuẫn của vợ chồng đã được gia đình hai bên hòa giải nhưng không có kết quả. Thực tế đến nay, hai bên đã sống ly thân không còn quan tâm đến nhau nữa. Lời khai của anh Sỹ A phù hợp với thực tế qua xác minh tại chính quyền địa phương về điều kiện kết hôn, quá trình chung sống cũng như tình trạng hiện tại của vợ chồng cùng với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét công khai tại phiên tòa. Đối với chị T, Toà án đã tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý cùng các văn bản tố tụng khác nhưng vẫn vắng mặt không có lý do như vậy chị T đã tự từ bỏ quyền và lợi ích hợp pháp của mình được pháp luật bảo vệ, đồng thời thể hiện chị T không có thiện chí hoà giải để vợ chồng đoàn tụ. Đến nay vợ chồng đã sống ly thân nhưng tình cảm không hề cải thiện, chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa họ đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Sỹ Anh là phù hợp với các quy định tại các Điều 51, 56 Luật Hôn nhân gia đình.

 [5] Về con chung: Hai bên không có con chung không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét.

 [6] Về tài sản chung: Hai bên không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xét.

 [7] Về án phí:  Anh Hoàng Sỹ A phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các điều 8, 9, 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, khoản 1, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, tuyên xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa anh Hoàng Sỹ A và chị Đỗ Thị Bích T.

- Về án phí: Anh Hoàng Sỹ A phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí  ly hôn sơ thẩm. Số tiền trên anh Sỹ A đã nộp đủ tại biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí số 0012949 ngày 03 tháng 01 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng.

- Về quyền kháng cáo:

Anh Hoàng Sỹ A và chị Đỗ Thị Bích T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

159
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2019/HNGĐ-ST ngày 17/04/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:10/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về