Bản án 10/2019/HNGĐ-ST ngày 15/05/2019 về ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH SƠN, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 10/2019/HNGĐ-ST NGÀY 15/05/2019 VỀ LY HÔN, NUÔI CON CHUNG KHI LY HÔN

Ngày 15 tháng 5 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 253/2018/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 12 năm 2018 về việc Ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 05 tháng 4 năm 2019; Quyết định hoãn phiên tòa số: 09/2019/QĐST-DS ngày 23 tháng 4 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Tạ Thu Hương H, sinh năm 1992.

Địa chỉ: Khu T N, thị trấn Th S, huyện Th S, tỉnh Phú Thọ.

2. Bị đơn: Anh Tạ Văn Th, sinh năm 1973.

Địa chỉ: Khu T N, thị trấn Th S, huyện Th S, tỉnh Phú Thọ.

(Chị H có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh Th vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 09/11/2018, bản tự khai ngày 14/12/2018 nguyên đơn chị Tạ Thu Hương H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Năm 2015 chị H kết hôn với anh Tạ Văn Th, có sự tìm hiểu tự nguyện và đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn Thanh Sơn, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Sau khi kết hôn vợ chồng thuê nhà ra ở riêng sinh sống tại thị trấn Thanh Sơn, huyện Thanh Sơn. Trong cuộc sống vợ chồng không có hạnh phúc, nguyên nhân do vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm dẫn đến cãi nhau, bản thân anh Th hay chơi bời, không tập trung làm ăn kinh tế, không có sự quan tâm và trách nhiệm gì với vợ con, vợ chồng sống ly thân từ tháng 10 năm 2018 đến nay không ai còn quan tâm đến nhau. Nay chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn nên xin được ly hôn anh Th để giải phóng cho nhau, ổn định cuộc sống.

Về con chung: Chị H trình bày vợ chồng có 01 con chung là cháu Tạ Nhật Gia L, sinh ngày 21/9/2010, hiện cháu đang ở với chị H tại thị trấn Thanh Sơn từ khi vợ chồng sống ly thân. Khi ly hôn chị H xin được nuôi con chung đến khi cháu thành niên, chị tự nguyện không yêu cầu anh Th cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp: Chị H trình bày không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Phía bị đơn, anh Tạ Văn Th đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không đến Tòa án để làm việc, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và tham gia phiên tòa. Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã xác minh tại địa phương về tình trạng hôn nhân giữa chị H với anh Th, lấy lời khai của anh trai anh Th. Theo kết quả xác minh ngày 20/3/2019 tại khu hành chính khu Thống Nhất và Công an thị trấn Thanh Sơn xác định anh Th có hộ khẩu thường trú tại khu Thống Nhất, thị trấn Thanh Sơn, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ, khu Thống Nhất có nhiều lần nhận được văn bản tố tụng của Tòa án có tống đạt trực tiếp cho anh Th còn việc anh Th có chấp hành hay không thì khu hành chính không biết. Trong cuộc sống vợ chồng chị H và anh Th có phát sinh mâu thuẫn dẫn đến cãi nhau, nguyên nhân chính là anh Th hay chơi bời, không tập trung làm ăn kinh tế gia đình, bản thân anh Th khi mâu thuẫn với chị H có nhiều lần gọi điện đe dọa đến tính mạng gia đình bố mẹ đẻ chị H, cụ thể ngày 10/12//2018 công an thị trấn Thanh Sơn kết hợp với khu hành chính Thống Nhất đã lập biên bản làm việc về nội dung trên. Tại biên bản lấy lời khai ngày 15/3/2019 của anh Tạ Duy C là anh trai ruột anh Th xác định anh Th thường xuyên về chơi gia đình mẹ đẻ ở Tổ 1, Ái Mỗ, phường Trung Hưng, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội, khi về nhà anh Th ở chung với mẹ đẻ đã 94 tuổi, mẹ anh Th thường xuyên đau ốm không đi lại được, vợ chồng anh Th chị H có mâu thuẫn như thế nào thì anh không biết, vì khi cưới nhau xong vợ chồng chuyển lên thị trấn Thanh Sơn để sinh sống. Anh C cũng không biết hiện nay anh Th làm công việc gì và ở đâu.

Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát:

Về việc tuân theo pháp luật: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án Thẩm phán đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng quy định của pháp luật, không có vi phạm gì. Các đương sự: Nguyên đơn đã chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt ghi ngày 23/4/2019; bị đơn chưa chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn là đúng theo quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Tạ Thu Hương H, xử cho chị H được ly hôn anh Tạ Văn Th. Về con chung: Giao cháu Tạ Nhật Gia L, sinh ngày 21/9/2010 cho chị H được tiếp tục nuôi dưỡng đến khi cháu L thành niên. Anh Th không phải cấp dưỡng nuôi con chung vì chị H tự nguyện không yêu cầu. Các vấn đề khác đương sự không yêu cầu nên không xem xét. Về án phí: Chị H phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Ngày 09/11/2018 chị Tạ Thu Hương H nộp đơn khởi kiện về việc ly hôn, nuôi con chung với anh Tạ Văn Th, đây là tranh chấp Hôn nhân gia đình được Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Về sự vắng mặt của các đương sự: Chị Tạ Thu Hương H có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh Tạ Văn Th được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên đây là vụ án không thể tiến hành hòa giải được, vì vậy Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt chị H, anh Th là phù hợp quy định tại Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Tạ Thu Hương H và anh Tạ Văn Th đăng ký kết hôn năm 2015 tại UBND thị trấn Thanh Sơn, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ, đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng thuê nhà ra ở riêng tại thị trấn Thanh Sơn. Trong cuộc sống vợ chồng không có hạnh phúc, nguyên nhân chính là do anh Thắng chơi bời, không có trách nhiệm với gia đình, vợ chồng thường xuyên xẩy ra cãi nhau, vợ chồng chính thức sống ly thân từ tháng 10 năm 2018 đến nay không ai còn quan tâm đến nhau, nội dung này đã được đương sự trình bày tại Tòa án. Kết quả xác minh cũng xác định vợ chồng chị H và anh Th có mâu thuẫn dẫn đến cãi nhau, anh Th còn có hành vi đe dọa đến gia đình chị H, thực tế anh chị đã không còn chung sống với nhau một thời gian dài. Hội đồng xét xử thấy rằng: Tình trạng hôn nhân giữa chị H và anh Th đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Việc chị H xin ly hôn với anh Th là có cơ sở nên được Hội đồng xét xử chấp nhận là phù hợp với khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về con chung: Chị H và anh Th có 01 con chung là cháu Tạ Nhật Gia L, sinh ngày 21/9/2010, hiện cháu đang ở với chị H tại thị trấn Thanh Sơn. Chị H với anh Th kết hôn với nhau năm 2015, cháu L được sinh ra năm 2010, đây là thời điểm anh chị chưa kết hôn, là sự bất hợp lý, tuy nhiên vấn đề này đã được chứng minh ở Giấy khai sinh của cháu Tạ Nhật Gia L. Hội đồng xét xử thấy rằng từ khi chị H và anh Th ly thân tháng 10 năm 2018 đến nay, cháu L ở với chị H được chị chăm sóc, nuôi dưỡng, ăn học đầy đủ, bản thân anh Th không quan tâm hoặc chu cấp gì để chị H nuôi con, điều đó thể hiện anh Th không có trách nhiệm với con chung. Cháu L còn nhỏ nên rất cần sự quan tâm chăm sóc của người mẹ, tại bản tự khai ngày 14/12/2018 nguyện vọng của cháu L xin được ở với mẹ. Để đảm bảo sự phát triển bình thường, cháu có điều kiện ăn học tốt nhất, phát triển toàn diện, tránh được sự sáo trộn về tâm lý cũng như ảnh hưởng đến việc học tập của cháu L cần giao con chung của anh chị cho chị H được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng đến khi cháu thành niên là phù hợp với Điều 81 Luật hôn nhân gia đình. Anh Th không phải cấp dưỡng nuôi con chung vì chị H tự nguyện không yêu cầu.

[4] Về tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp: Chị H xác định không có, ly hôn chị không đề nghị Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp nên cần chấp nhận.

[6] Về án phí: Chị H phải nộp tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 4 Điều 147, Điều 227, 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Tạ Thu Hương H đối với anh Tạ Văn Th. Xử cho chị Tạ Thu Hương H được ly hôn anh Tạ Văn Th.

2. Về con chung: Giao cháu Tạ Nhật Gia L, sinh ngày 21/9/2010 cho chị Tạ Thu Hương H được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi cháu thành niên. Anh Tạ Văn Th không phải cấp dưỡng nuôi con chung vì chị H tự nguyện không yêu cầu. Sau khi ly hôn anh Th không trực tiếp nuôi con chung có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Tạ Thu Hương H phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Xác nhận chị H đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí theo Biên lai thu số AA/2018/0001561 ngày 13/12/2018 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Nay chuyển thành án phí.

Các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại trụ sở UBND xã, thị trấn nơi các đương sự thường trú để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

303
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2019/HNGĐ-ST ngày 15/05/2019 về ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn

Số hiệu:10/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Sơn - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về