Bản án 10/2019/HNGĐ-ST ngày 08/04/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIẾN XƯƠNG - TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 10/2019/HNGĐ-ST NGÀY 08/04/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 08/4/2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 17/2019/TLST-HNGĐ ngày 30 tháng 01 năm 2019 về việc “ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 11/2019/QĐST-HNGĐ ngày13 tháng 3 năm 2019, Quyết định hoãn phiên tòa số 07/2019/QĐST-HNGĐ ngày 29/3/2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Cao Thị H, sinh năm 1987

Nơi cư trú: Phòng 8, Số nhà 23, đường C 1, thị trấn Q, huyện L, TP Hà Nội.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Thanh T, sinh năm 1987

3. Người làm chứng: Bà Lê Thị M, sinh năm 1965

Đều cư trú: Thôn T, xã L, huyện X, tỉnh Thái Bình.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện xin ly hôn, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, chị Cao Thị H trình bày: Chị và anh Nguyễn Thanh T tự nguyện kết hôn với nhau, có đăng ký kết hôn tại UBND xã L, huyện X vào ngày 19 tháng 7 năm 2016. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống không được hạnh phúc, nguyên nhân do anh T không quan tâm đến mẹ con chị. Đặc biệt vào ngày 11/11/2018 chỉ vì lý do rất nhỏ anh T đã đánh chị, chửi bới mẹ đẻ chị khi mẹ chị đang trông con hộ nên chị đã phải nhờ chính quyền can thiệp. Từ đó chị và anh T sống ly thân, không còn quan tâm đến nhau. Chị thấy không còn tình cảm với anh T, chung sống không có hạnh phúc nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn.

Về con chung: Chị và anh T có một con chung tên Nguyễn Tuyết Ng, sinh ngày 22/5/2017, chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con sau ly hôn, không yêu cầu anh T góp tiền cấp dưỡng nuôi con. Chị làm tại Công ty cổ phần đầu tư Reenco Sông Hồng, địa chỉ 8 C, A, phường P, Quận T, TP Hà Nội, với mức thu nhập15.000.000 đồng/ tháng.

Về tài sản và nợ chung: Không có.

Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bị đơn anh Nguyễn Thanh T trình bày: sau khi kết hôn anh chị chung sống hạnh phúc đến tháng 11/2018 phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do mẹ chị H đối xử với anh không đúng mực, thường có lời lẽ xúc phạm anh. Chị H không là trung gian đứng ra hòa giải, xem xét đúng sai mà nghe theo lời mẹ, từ đó dẫn đến vợ chồng mâu thuẫn rồi chị H thuê nhà ở riêng, sống ly thân từ đó đến nay. Anh không còn tình cảm với chị H nhưng vẫn mong muốn trở về đoàn tụ để nuôi dạy con chung, còn nếu chị H cương quyết xin ly hôn anh cũng chấp nhận.

Về con chung: Anh và chị H có một con chung như chị H khai, anh nhất trí để chị H trực tiếp nuôi dưỡng con chung, anh không có ý kiến gì về việc chị H không yêu cầu anh góp tiền cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản và nợ chung: Không có.

Bà Lê Thị M là mẹ đẻ anh T trình bày về thời gian, nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn như anh T khai, từ khi chị H thuê nhà ở riêng, gia đình và anh T đã tìm gọi nhiều lần nhưng chị H cương quyết không về, đề nghị Tòa án giải quyết việc chị H xin ly hôn theo quy định của pháp luật.

Kết quả xác minh tại UBND xã L, huyện X thể hiện: Sau khi kết hôn anh chị đi lao động tự do nên địa phương không nắm bắt được nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn, từ cuối năm 2018 đến nay không thấy chị H về cùng anh T. Đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến Xương phát biểu quan điểm:

Thẩm phán, HĐXX và Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ quy định tại các Điều 70,71, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Đề nghị áp dụng các điều 56,81,82,83 Luật hôn nhân và gia đình xử cho chị H được ly hôn anh T, về con chung giao con chung cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, ghi nhận sự tự nguyện của chị H về việc không yêu cầu anh T góp tiền cấp dưỡng nuôi con; về tài sản và nợ chung các đương sự đều khai không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về thủ tục tố tụng:

[1] Chị Cao Thị H khởi kiện xin ly hôn anh Nguyễn Thanh T có nơi cư trú xã Vũ Lễ, huyện Kiến Xương nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Kiến Xương là đúng với quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ nên Viện kiểm sát nhân huyện Kiến Xương tham gia phiên tòa là đúng với quy định tại khoản 2 Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự. 

- Về nội dung vụ án:

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị H và anh T tự nguyện kết hôn với nhau, có đăng ký kết hôn tại UBND xã L, huyện X là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Anh chị chung sống hạnh phúc đến cuối năm 2018 phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng về tính cách, lối sống, không có sự tôn trọng lẫn nhau. Chị H xin ly hôn, anh T xác định không còn tình cảm, không trở về đoàn tụ với nhau được chứng tỏ mâu thuẫn đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu của chị H, quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên tòa, xử cho chị được ly hôn anh T là phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về con chung: Anh T và chị H có một con chung là Nguyễn Tuyết Ng, sinh ngày 22/5/2017. Chị H có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung do con còn nhỏ, anh T nhất trí với ý kiến của chị H, do đó căn cứ vào các điều 81,82,83 Luật hôn nhân và gia đình giao con chung Nguyễn Tuyết Ng cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng; ghi nhận sự tự nguyện của chị H về việc không yêu cầu anh T góp tiền cấp dưỡng nuôi con.

[5] Về tài sản và nợ chung: các đương sự đều khai không có.

[6] Về án phí: Chị Cao Thị H phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng các Điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.

- Áp dụng khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Cao Thị H được ly hôn anh Nguyễn Thanh T.

2. Về quan hệ con chung: Giao con chung Nguyễn Tuyết Ng, sinh ngày 22/5/2017 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, ghi nhận sự tự nguyện của chị H về việc không yêu cầu anh T góp tiền cấp dưỡng nuôi con. Anh T có quyền thăm nom con chung.

3. Về tài sản và nợ chung: Không có.

4. Về án phí: Chị Cao Thị H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm. Chuyển số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) chị H đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001233 ngày 30/01/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Kiến Xương thành án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự đều có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 08/4/2019.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2019/HNGĐ-ST ngày 08/04/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:10/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kiến Xương - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về