Bản án 10/2018/HS-ST ngày 27/02/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TỨ KỲ, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 10/2018/HS-ST NGÀY 27/02/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 02 năm 2018 tại nhà văn hóa khu A Nh Đ, thị trấn T K, huyện T K, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 07/2018/TLST-HS ngày 08 tháng 02 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2018/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 02 năm 2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Kim S (tên gọi khác Nguyễn Huy S) - sinh năm 1984 tại huyện N S, tỉnh Hải Dương; nơi cư trú: Thôn L Đ, xã H T, huyện N S, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Duy X và bà Lê Thị N; có vợ và 02 con; tiền án, tiền sự Không; nhân thân: Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 44/QĐ-XPVPHC ngày 18/01/2016 của Trưởng công an huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương đã xử phạt Nguyễn Kim 600.000 đồng về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 09/01/2018 đến ngày 18/01/2018 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương, theo Lệnh tạm giam số 42 ngày 18/01/2018 của Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện Tứ Kỳ. Có mặt

Người làm chứng:

Anh Kiều Văn D - Sinh năm 1991. Vắng mặt.

Địa chỉ: Thôn Ph X, xã Ng S, huyện T K, tỉnh Hải Dương.

- Anh Đàm Văn S1 - Sinh năm 1986. Vắng mặt.

Địa chỉ: Khu 5, phường Th Kh, thành phố H D, tỉnh Hải Dương.

- Anh Đỗ Văn D1 - Sinh năm 1982. Vắng mặt.

Địa chỉ: Thôn Đ L, xã V T, huyện T K, tỉnh Hải Dương.

Người chứng kiến.

- Anh Trần Văn T - Sinh năm 1991. Vắng mặt.

Địa chỉ: Thôn Ng L, xã Ng S, huyện T K, tỉnh Hải Dương.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ ngày 08/01/2018 Nguyễn Kim S đến nhà Kiều Văn D - Sinh năm 1991 ở thôn Ph X, xã Ng S, huyện T K, tỉnh Hải Dương chơi. Khoảng 14 giờ, ngày 09/01/2018 S cầm túi ni-lông kích thước 1,5x2cm bên trong chứa chất ma túy (dạng đá) đi xe buýt đến phòng trọ của Ph (bạn của D) ở thôn B D, xã K S, huyện T K, tỉnh Hải Dương để cùng Ph sử dụng ma túy. Khoảng 14giờ 30 phút cùng ngày, Sơn cầm ma túy trên tay và đi bộ tại ngã ba thôn B D, xã K S để tìm đường đến nơi trọ của Ph thì bị lực lượng Công an tỉnh Hải Dương phát hiện bắt quả tang, S ném gói ma túy xuống rìa đường. Vụ án được điều tra làm rõ.

Vật chứng thu giữ gồm: Thu giữ của S 01 điện thoại di động Nokia 105, lắp sim số 0969055441; 01 túi ni - lông kích thước 1,5x2cm bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng.

Tại Kết luận giám định số 126/KLGĐ-PC54 ngày 12/01/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương đã kết luận: Chất tinh thể màu trắng ghi thu của Nguyễn Huy Sơn gửi đến giám định có khối lượng là 0,362g (không phẩy ba trăm sáu mươi hai gam), là loại Methamphetamine. Mẫu vật hoàn lại sau giám định 0,276g (không phẩy hai trăm bẩy mươi sáu gam) Methamphetamine.

Tại bản cáo trạng số 10/CT-VKSTK ngày 07/02/2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương truy tố bị cáo Nguyễn Kim S (tên gọi khác Nguyễn Huy S) về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tứ Kỳ giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Kim S (tên gọi khác Nguyễn Huy S) phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38, điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự; Luật số 97 về án phí và lệ phí, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Kim S (tên gọi khác Nguyễn Huy S) từ 14 đến 17 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ. Về hình phạt bổ sung: Không. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 0,276g Methamphetamine là mẫu vật hoàn lại sau giám định; Về án phí: Bị cáo phạm tội nên phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, công nhận quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tứ Kỳ là đúng và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Người làm chứng là Đàm Văn S1, anh Đỗ Văn D1 vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong quá trình điều tra đã xác định: Khoảng 14 giờ 30 phút, ngày 09/01/2018 tại đường liên thôn B D, xã K S, huyện TK thì thấy một thanh niên vứt một vật nhỏ màu trắng ra rìa đường, cùng lúc đó lực lượng công an phát hiện bắt giữ Nguyễn Huy S và thu giữ 01 túi ni - lông màu trắng, kích thước 1,5x2cm bên trong chứa các chất tinh thể màu trắng. S khai là ma túy tổng hợp dạng đá vừa vứt ra rìa đường.

Anh Kiều Văn D khai: Giữa D và S có quan hệ bạn bè. Sáng ngày 09/01/2018 Sơn có đến nhà D chơi và ở lại ăn cơm trưa. Ăn cơm xong thì anh D đi lên thành phố H D có việc riêng còn S ở lại nhà D. Khi D về thì không thấy S còn ở nhà D, không biết S đi đâu và làm gì. Trong thời gian ở nhà D, S không nói gì về việc cất giấu hoặc sử dụng ma túy. Đối với số điện thoại di động 0981098068 của anh D nhưng cách ngày S phạm tội khoảng 4-5 ngày thì anh D đã làm mất điện thoại. Anh D không thừa nhận việc nhờ S cầm ma túy đưa cho người tên là Ph thuê phòng trọ ở B D, xã K S, huyện T K, tỉnh Hải Dương.

Người chứng kiến anh Trần Văn T vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong quá trình điều tra đã khai: Khoảng 14 giờ 30 phút, ngày 09/01/2018 tại đường liên thôn B D, xã K S, huyện T K chứng kiến lực lượng Công an bắt giữ một thanh niên vừa vứt một vật nhỏ màu trắng ra rìa đường, người thanh niên đó là Nguyễn Huy S. Công an đã thu giữ 01 túi ni - lông màu trắng, kích thước 1,5x2cm bên trong chứa các chất tinh thể màu trắng. Sơn khai là ma túy tổng hợp dạng đá vừa vứt ra rìa đường.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và phù hợp với lời khai của người chứng kiến, người làm chứng cũng như các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 14 giờ 30 phút, ngày 09/01/2018, tại đường liên thôn B D, xã K S, huyện TK, tỉnh Hải Dương, Nguyễn Kim S (tên gọi khác Nguyễn Huy S) có hành vi cất giấu trái phép trong lòng bàn tay 0,362 gam (không phẩy ba trăm sáu mươi hai gam), là loại Methamphetamine để sử dụng, khi bị lực lượng Công an phát hiện S đã vứt gói ma túy xuống đường. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi cất giấu trái phép 0,362gam Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng cá nhân. Do vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự và Viện kiểm sát nhân dân huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ pháp luật.

[2] Về nhân thân và tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo là người có nhân thân xấu, tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 44/QĐ- XPVPHC ngày 18/01/2016 của Trưởng công an huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương đã xử phạt Nguyễn Kim S 600.000 đồng về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy. Nộp tiền phạt ngày 20/01/2016. Cho đến ngày bị cáo phạm tội đã quá một năm kể từ ngày chấp hành xong Quyết định xử phạt vi phạm hành chính nên được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính. Trong vụ án này bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo có bố đẻ là Nguyễn Duy X được Nhà nước tặng thưởng Huân chương chiến sĩ giải phóng hạng Ba. Do vậy cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

[4] Căn cứ quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo lao động tự do, không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, không có tài sản riêng nên HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng: Đối với 0,276gam (không phẩy hai trăm bảy mươi sáu gam), là loại Methamphetamine mẫu vật hoàn lại sau giám định là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy. Đối với chiếc điện thoại di động Nokia 105, lắp sim số 0969055411 của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo.

Như vậy là phù hợp với điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 và khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[7] Về án phí: Bị cáo phạm tội nên phải chịu án phí sơ thẩm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[8] Trong vụ án này, S khai số ma túy do Kiều Văn D nhờ S mang đến phòng trọ của Ph ở thôn B D, xã K S, huyện T K để sử dụng, D không thừa nhận việc trên. Số điện thoại 0981098068 của D đã bị mất trước ngày S phạm tội khoảng 4-5 ngày. Do vậy, quá trình điều tra không đủ căn cứ chứng minh hành vi vi phạm của D nên Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện Tứ Kỳ không xử lý. Đối với người tên là Ph đã bỏ đi khỏi nơi trọ, không ai biết người phụ nữ tên Ph có họ, tên đầy đủ là gì, quê quán ở đâu nên không có căn cứ xác minh làm rõ. Do vậy HĐXX không xem xét giải quyết.

[9] Các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là hợp pháp, phù hợp với các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51, điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; Khoản 1, điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 106, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Kim S (tên gọi khác Nguyễn Huy S) phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Kim S (tên gọi khác Nguyễn Huy S) 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 09/01/2018.

3. Về xử lý vật chứng: Xử tịch thu tiêu hủy 0,276 gam Methamphetamine là mẫu vật hoàn lại sau giám định đựng trong bì thư dán kín có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Hải Dương số 126/KLGĐ-PC54.

Trả lại cho Nguyễn Kim S (tên gọi khác Nguyễn Huy S) 01 điện thoại di động Nokia 105, lắp sim số 0969055441.

(Đặc điểm vật chứng theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 02/02/2018 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện Tứ Kỳ và Chi cục thi hành án dân sự huyện Tứ Kỳ).

4. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Kim S (tên gọi khác Nguyễn Huy S) phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm hình sự.

5.Về quyền kháng cáo.

Bị cáo có quyền kháng cáo đối với bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

232
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2018/HS-ST ngày 27/02/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:10/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tứ Kỳ - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/02/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về