Bản án 10/2018/HS-ST ngày 06/02/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN HỒNG BÀNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 10/2018/HS-ST NGÀY 06/02/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 02 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng mở phiên toà công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 01/2018/TLST-HS ngày 05-01-2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2018/HSST-QĐ ngày 24 tháng 01 năm 2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn D,sinh năm 1972 tại Nghệ An; cư trú: Phường ĐC, thành phố V, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; con ông Nguyễn Văn D và con bà Phạm Thị L (tên gọi khác là Phan Thị L1, Phan Thị L) đều đã chết; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Bản án số …/HSST ngày 13-9-2001 của Tòa án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An xử 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (được xóa án tích);

Bản án số …/HSST ngày 25-12-2002 củaTòa án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An xử 15 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (được xóa án tích);

Bản án số …/2004/HSPT ngày 22-12-2004 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh xử 18 tháng tù về tội Vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ (được xóa án tích);

Bản án số …/HSST ngày 16-11-2009 của Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa xử 24 tháng tù về tội Vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ(được xóa án tích);

Bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang ngày 01-10-2017, tạm giữ từ ngày 02-10-2017, chuyển tạm giam từ ngày 05-10-2017. Có mặt.

- Người làm chứng: Trần Duy B. Vắngmặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 01-10-2017, Nguyễn Văn D đi xe ô tô khách từ Móng Cái, Quảng Ninh đến ngã tư Quán Toan, quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng, rồi thuê xe ôm vào khu vực đường tàu Trần Nguyên Hãn, Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng. D mua 16 gói ma túy với giá 800.000 đồng của một người đàn ông không biết tên, tuổi, địa chỉ với mục đích sử dụng cá nhân. Sau đó, D cất giấu số ma túy vào giầy bên phải, rồi đi xe ôm đến ngã tư Quán Toan, chờ đợi xe khách đi Nghệ An. Khi D đang đứng đợi thì bị Công an kiểm tra, phát hiện bắt quả tang.

Theo Kết luận giám định số 1046/KLGĐ ngày 05/10/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Chất bột gửi giám định là ma túy, có trọng lượng 2,7800 gam, là loại heroine.

Về vật chứng: Số ma túy còn lại sau giám định; 01 điện thoại di động Nokia 1280 đã cũ màu đen có số IMEI: 355205/05/387871/2; 01 ví da màu nâu đã cũ, 01 Chứng minh nhân dân, 01 Giấy phép lái xe, 01 thẻ ATM Viettinbank đều mang tên Nguyễn Văn D; số tiền 10.086.500 đồng, 01 tờ tiền ngoại tệ mệnh giá 2USD.

- Tại Cáo trạng số 04/CT-VKS ngày 04/01/2018, Viện Kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng truy tố Nguyễn Văn D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 (nay là Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Tại phiên toà, bị cáo khai rõ, đúng sự thật tất cả hành vi phù hợp nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng, thừa nhận việc truy tố, xét xử bị cáo là đúng người, đúng tội danh và ý kiến biểu hiện rõ sự day dứt, hối hận về việc thực hiện tội phạm, mong muốn sửa chữa lỗi lầm thông qua việc chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tích cực lao động chân chính. Bị cáo chỉ xin giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như nội dung Cáo trạng, đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 41 của Bộ luật Hình sự năm 1999, điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14), Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20-6-2017 của Quốc hội, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, xử: Nguyễn Văn D từ 30 tháng đến 36 thángtù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Đề nghị không áp dụng hình phạt tiền và tịch thu tiêu hủy vật chứng là số ma túy còn lại sau giám định; trả lại 01 điện thoại Nokia 1280 đã cũ màu đen có số IMEI: 355205/05/387871/2; Trả lại bị cáo 01 ví da màu nâu đã cũ, 01 Chứng minh nhân dân, 01 Giấy phép lái xe, 01 thẻ ATM Viettinbank đều mang tên Nguyễn Văn D; tạm giữ số tiền 10.086.500 đồng, 01 tờ tiền ngoại tệ mệnh giá 2USD để đảm bảo thi hành án.

Đối với người bán ma túy cho bị cáo do chưa xác định được lai lịch địa chỉ nên Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, xử lý sau là phù hợp quy định của pháp luật. Đồng thời, đề nghị buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Hồng Bàng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố của cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do vậy, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Về nhận định các tình tiết của vụ án:

[2] Về tội danh: Lời khai nhận của Nguyễn Văn D tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, vật chứng, Kết luận giám định, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ, niêm phong vật chứngvà các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án nên đủ cơ sở khẳng định: Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 01/10/2017, bị cáo D bị bắt quả tang đang cất giấu 2,7800 gam heroine trong giầy bên phải đang đi, mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển hay sản xuất trái phép chất ma túy. Do vậy, đủ căn cứ kết luận bị cáo Nguyễn Văn D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999.

[3] Về tình tiết định khung hình phạt: Nguyễn Văn D không phạm tình tiết tăng nặng định khung nào khác khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999, nên bị cáo phạm khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước về các chất ma túy tuyệt đối cấm sử dụng trong y học và đời sống xã hội, vi phạm Luật Phòng, chống ma túy ngày 09 tháng 12 năm 2000 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật phòng, chống ma túy ngày 03 tháng 6 năm 2008; mà còn là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương. Đây là tệ nạn xã hội gây tâm lý bức xúc trong quần chúng nhân dân nên cần phải cách ly xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:Không có.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên toà và trong quá trình điều tra, Nguyễn Văn D thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có mẹ được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng ba nên bị cáo được hưởng các tình tiết theo điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14).

[7] Về nhân thân: Nguyễn Văn D bị xử lý trách nhiệm hình sự nhiều lần tuy đã được xóa án tích, nhưng cần đánh giá bị cáo có nhân thân xấu, thể hiện ý thức chấp hành pháp luật chưa nghiêm. Do vậy, cần xem xét nhân thân của bị cáo khi quyết định hình phạt, đảm bảo giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội.

Về hình phạt chính:

[8] Đối chiếu với các quy định pháp luật hình sự hiện nay, cần áp dụng hình phạt hướng có lợi cho bị cáo theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14), Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20-6-2017 của Quốc hội là có căn cứ.

[9] Trên cơ sở đánh giá đầy đủ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, căn cứ quy định pháp luật hình sự theo hướng có lợi, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, quá trình nhân thân, nên cần xử phạt bị cáo mức hình phạt tù thích hợp mới đảm bảo nhằm trừng trị người phạm tội, giáo dục bị cáo có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa bị cáo phạm tội mới và giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.

[10] Về hình phạt bổ sung:Trước khi bị bắt, bị cáo lao động có thu nhập ổn định và bị thu giữ tiền.Tuy nhiên, cần xem xét chỉ phạt 5.000.000 đồng phù hợp quy định theo khoản 5 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14).

Về xử lý vật chứng:

[11] 01 (một) phong bì niêm phong chất bột màu trắng có thành phần Heroin còn lại sau giám địnhcó dấu niêm phong số 1046/PC54 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng là chất mà Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy theo điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

[12] Bị cáo không sử dụng vào việc phạm tội đối với 01 điện thoại di động Nokia 1280 đã cũ màu đen có số IMEI: 355205/05/387871/2, 01 ví da màu nâu đã cũ, 01 Chứng minh nhân dân, 01 Giấy phép lái xe, 01 thẻ ATM Viettinbank đều mang tên Nguyễn Văn D. Xét thấy không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án nên cần trả lại cho bị cáo theo điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[13] Bị cáo không sử dụng số tiền 10.086.500 đồng; 01 tờ tiền ngoại tệ mệnh giá 2USD vào việc phạm tội, nên cần trả lại nhưng phải giữ lại để đảm bảo thi hành án.

[14] Đối với người bán ma túy cho bị cáo do chưa xác định được lai lịch địa chỉ, nên Cơ quan cảnh sát điều tra tiếp tục điều tra, xử lý phù hợp quy định của pháp luật.

[15] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố Nguyễn Văn D phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Căn cứ vào khoản 1, khoản 5 Điều 194, Điều 33, điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999; khoản 3 Điều 7, điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14); Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20-6-2017 của Quốc hội, xử phạt:

Nguyễn Văn D 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 01-10-2017.

Phạt tiền 5.000.000 (Năm triệu) đồng để sung quỹ Nhà nước.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 41 của Bộ luật Hình sự năm 1999; điểm c khoản 1 Điều 47, khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14);

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong chất bột màu trắng có thành phần Heroin còn lại sau giám địnhcó dấu niêm phong số 1046/PC54 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng.

Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại Nokia 1280 đã cũ màu đen có số IMEI: 355205/05/387871/2, 01 ví da màu nâu đã cũ, 01 Chứng minh nhân dân, 01 Giấy phép lái xe, 01 thẻ ATM Viettinbank đều mang tên Nguyễn Văn D.

Trả lại cho Nguyễn Văn D 10.086.500 đồng; 01 tờ tiền ngoại tệ mệnh giá 2USD, tuy nhiên giữ lạisố tiền này để đảm bảo thi hành án đối với bị cáo.

(Đặc điểm vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 04-01-2018 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Hồng Bàng và Chi cục Thi hành án Dân sự quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng).

3. Về án phí: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2015/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, Nguyễn Văn D phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2018/HS-ST ngày 06/02/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:10/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hồng Bàng - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/02/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về