Bản án 10/2018/HS-PT ngày 30/01/2018 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 10/2018/HS-PT NGÀY 30/01/2018 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB

Ngày 30 tháng 01 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 206/2017/TLPT-HS ngày 20/11/2017 đối với bị cáo Trần Đình Châu do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 45/2017/HSST ngày 20/9/2017 của Tòa án nhân dân thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An.

Bị cáo có kháng cáo:

Trần Đình C; tên gọi khác: Không; sinh ngày 15 tháng 01 năm 1970; nơi cư trú: Tổ dân phố L, phường K, thị xã A, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hoá: Lớp 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Đình H (chết) và bà Lê Thị K, sinh năm 1935; có vợ: Lê Thị L (chết) chưa có con; tiền sự, tiền án: không.

Bị cáo Trần Đình C không bị tạm giữ, tạm giam (có mặt) - Bị hại: Bà Nguyễn Thị Q , sinh năm 1971 (chết) Trú tại: Khối m phường M, thị xã H, tỉnh Nghệ An - Người đại diện hợp pháp của bị hại không kháng cáo:

Cụ Ngô Thị Th, sinh năm 1944 là mẹ của người bị hại (vắng mặt) Ông Ngô Trí H, sinh năm 1970 là chồng của người bị hại (vắng mặt) Ông Ngô Trí C sinh năm 1994 là con của người bị hại (vắng mặt) Anh Ngô Trí N, sinh năm 1996 là con của người bị hại (vắng mặt) Đều trú tại: Khối m, phường M, thị xã H, tỉnh Nghệ An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Đình C có giấy phép lái xe hợp lệ số 420134007133 hạng A1, C do Sở Giao thông vận tải Hải Phòng cấp ngày 12/10/2015 có giá trị đến ngày 12/10/2020. Sáng ngày 08/02/2017 Trần Đình C điều khiển xe ô tô tải nhãn hiệu HUYNDAI, sơn màu xanh, biến số 29C - 303.82 chở anh L và anh T từ huyện Nghi Lộc đi ra tỉnh Thanh Hóa để mua trâu, do không mua được trâu nên 16 giờ cùng ngày Trần Đình C điều khiển xe ô tô quay về Nghi Lộc. Đến 18 giờ 30 phút khi đi về đến km 387+40m Quốc lộ 1A thuộc địa phận khối Tân Tiến, phường Quỳnh Thiện, thị xã Hoàng Mai, Trần Đình C điều khiển chạy làn đường xe cơ giới ở giữa phía tây, tốc độ khoảng 40km/giờ, lúc này Trần Đình C phát hiện ở giữa phía trước cùng chiều có một xe mô tô biển số 37L1 -146.51 do bà Nguyễn Thị Q, sinh năm 1971, trú tại khối m, phường M, thị xã H điều khiển và cách xe của Trần Đình C khoảng 2m, khi phát hịên xe mô tô phía trước quá gần, Trần Đình C đánh lái xe ô tô sang trái để tránh xe mô tô nhưng không kịp, nên đã để đầu xe ô tô đâm vào đuôi xe mô tô do bà Quyên điều khiến và đẩy cả xe mô tô và bà Q vào thành giải phân cách cứng gây tai nạn giao thông. Hậu quả bà Nguyễn Thị Q bị thương nặng và chết trên đường đi cấp cứu, xe mô tô và ô tô hư hỏng.

Hiện trường vụ tai nạn: Vụ tai nạn xảy ra vào khoảng 18 giờ 30 phút, trời tối, đường một chiều phía tây quốc lộ 1A rộng 9m10, ở giữa có giải phân cách cứng, có vạch sơn phân làn đường gồm hai làn xe cơ giới và một làn xe thô sơ, đường rải thảm nhữa bằng phẳng, đường thắng tầm nhìn không bị che khuất.

Lấy cột Km 387 nằm ở phía Tây của Quốc lộ 1A làm điểm mốc; chonj mép đường phai Tây Quốc lộ 1 A làm đường chuẩn. khám nghiệm chi tiết thấy:

Từ điểm mốc đo về phía nam 42m là điểm đầu dấu vết cày trượt mặt đường (trên sơ đồ kí hiệu số1). Vết cày trượt không liên tục theo hướng từ tây sang đông, từ Bắc vao Nam đến vị trí của xe mô tô biển số 37L1-146.51. Điểm đầu vết cày trượt số 1 cách đường chuẩn về phía tây là 5m30, cách trục bánh sau bên phải xe ô tô 29C-303.82 về phía Nam là 7m60.

- Từ điểm cày trượt số 1 đo về phía Nam 3m20 là điểm đầu vết phanh xe ô tô (trên sơ đồ kí hiệu số 2). Vết phanh rộng 13 cm, dài 3m20, hướng từ Tây sang Đông, từ Bắc vào Nam đến vị trí của xe mô tô biển số 37L1-146.51. Điểm đầu vết cày trượt số 1 cách đường chuẩn về phía tây là 5m30, cách trục bánh sau phải xe ô tô 29C-303.82 về phía Nam là 7m60.

- Từ điểm đầu vết cày trượt số 1 đo về phía Nam 3m20 là điểm đầu vết phanh xe ô tô ( trên sơ đồ kí hiệu số 2). Vết phanh rộng 13cm, dài 3m20, hướng từ Tây sang Đông, từ Bắc vào Nam. Điểm đầu vết phanh cách đương chuẩn về phía Tây là 9m, điểm cuối nằm sát vào chân giải phân cách cứng ở giữa Quốc lộ 1A.

- Từ điển đầu vết phanh số 2 đo về phía Bam 0m80 là điểm đầu vết chà xát dải phân cách cứng của đường ( trên sơ đồ kí hiệu số 3). Vết chà xát trên mặt phía Tây của giải phân cách dài 2m, chiều hướng từ Bắc vào Nam. Điểm thấp nhấ vùng dấu vết cách mặt đường lên 35 cm, điểm cao nhất cách mặt đường lên 80 cm. Trên bề mặt dấu vết có bám chất màu đen dạng cao su.

- Từ điểm đầu vết cày trượt số 1 đo về phía Nam 7m60 là trục bánh sau bên phải của xe ô tô 29C-303.82. (Trên sơ đồ kí hiệu số 4). Xe ô tô só 4 sau tai nạn đỗ trên mặt đường, đầu xe quay hướng Nam, đuôi xe quay hướng Bắc. trục bánh sau bên phải xe cách đường chuẩn về phía Tây là 7m80, trục bánh trước bên phải xe cách đường chuẩn về phía tây là 7m50.

- Tại vị trí điểm cuối của vết chà xát giải phân cách số 3 là điểm đầu dấu vết máu và tổ chức cơ thể trên mặt phía tây của giải phân cách cứng ( trên sơ đồ kí hiệu số 5). Dấu vết máu và tổ chức cơ thể bám dính không liên tục trên bề mặt phía Tây của giải phân cách cứng, chiều hướng từ Bắc vào Nam. Vùng dấu vết dài 3 m 15, điểm thấp nhất vùng dấu vết nằm sát mặt đường, điểm cao nhất cách mặt đường lên 1m.

- Vùng bên trái đầu xe ô tô số 4 có vùng mảnh vỡ nhựa màu trắng, có kích thước (85x2)m. Tâm vùng mảnh nhựa vỡ cách đường chuẩn về phía Tây là 9m20. (trên sơ đồ kí hiệu số 6) - Từ trục bánh trước bên phải xe ô tô phía Nam 7m20 là trục bánh sau xe mô tô 37L1-146.51 (trên sơ dồ kí hiệu số 7). Xe mô tô sau tai nạn ngã nghiêng sang trái trên mặt đường. Đầu xe quay hướng Tây Nam, đuôi xe quay hướng Đông Bắc. Trục bánh sau xe cách đường chuẩn về phía tây là 8m30, trục bánh trước cách đường chuẩn về phía Tây là 8m 30, trục bánh trước cách đường chuẩn về phía Tây là 7m50.

2. Dấu vết để lại trên xe ô tô 29C-303.82 Xe ô tô tải biển số 29C-303.82 nhãn hiệu HYUNDAI, màu xanh, số máy: D4BB6-373043, số khung: RLPRAI7BP7T003431, kích thước bao: 5075x1725x2500mm, chiều dài cơ sở: 2640mm, khối lượng bán thân: 1925kg, thể hiện:

- Góc trái ba đờ xốc trước có vùng cà xước, bong tróc sơn tít, đứt thùng nhựa kích thước (59x33)cm; tại mặt trước của vùng dấu vết này có bám dính mảnh nhựa màu đỏ (giống nhựa của đèn hậu xe mô tô liên quan trong vụ tai nạn), tâm mảnh nhựa này cách thành xe bên trái vào 12cm, cách mặt đất 63cm. vùng dấu vết cà xước trên có chiều hướng từ trước ra sau, từ phải qua trái, điểm cao nhất cách mặt đất 76cm, điểm thấp nhất cách mặt đất 44 cm.

- Đèn xi nhan trước bên phải, phần phía dưới bị vỡ ốp nhựa kích thước (16x6)cm. ốp mặt nạ xe, phần phía dưới đèn xi nhan trên bị cong vênh, móp lõm, xô từ trái qua phải, trên bề mặt bị cà xước, mài mòn sơn tít, chùi sạch bụi đất có kích thước (1,33x0,6)m, chiều hướng từ trước ra sau, điểm cao nhất vùng dấu vết cách mặt đất lên 99cm, điểm thấp nhất cách mặt đất 43cm.

- Hông lốp, mặt ngoài của lốp trước bên trái có vùng dấu vết cà xước, mài mòn cao su trên diện có kích thước (85x13)cm, chiều hướng từ tâm lốp ra mặt lăn, điểm đầu dấu vết cách chân van 30cm theo chiều quay kim đồng hồ. trên bề mặt vùng cà xước cao su này có bám dính chất màu đỏ (dạng máu khô) kích thước (9x8)cm, tâm vết máu cách chân van 75cm theo chiều quay kim đồng hồ. Mặt ngoài la răng bánh xe này có nhiều dấu vết màu đỏ (dạng máu khô) trên diện kích thước (33x25)cm.

- Mặt ngoài, góc trước thành thùng xe bên trái, phía dưới có vùng cà xước sơn tít, chùi sạch bụi đất trên diện có kích thước (33x15)cm, chiều hướng từ trước ra sau. Điểm cao nhất cách mặt đất lên 85cm, điểm thấp nhất cách mặt đất lên 72cm, trên bề mặt bám dính các vệt máu màu đỏ (dạng máu khô) - Hệ thống an toàn kĩ thuật còn hiệu lực.

3. Dấu vết để lại trên xe mô tô 37L1-146.51.

Xe mô tô biển số 37L1-146.51 nhãn hiệu HONĐA, màu đen – xám – bạc, số máy: C52E-5006858, số khung: 9CY-602361, thể hiện:

- Gương chiếu hậu trái, phải bị vỡ mặt gương. Gương trái bị xô từ trước ra sau, từ phải qua trái một góc 90 độ, cần gương và ốp gương có vết cà xước mài mòn kim loại và nhựa chiều hướng trước ra sau, từ phải qua trái, trên bề mặt có bám dính bột đá màu trắng.

- Ốp đèn pha phía trên, mặt đèn bị vỡ và cà xước kích thước (37x25)cm, chiều hướng từ trái sang phải, từ trên xuống dưới.

- Phía trái xe: Cánh yếm bị bung gờ giữ, chắn bùn trước, mặt ngoài trục bánh trước, bàn để chân trước, bàn để chân sau, thân xe đều có vết cà xước, mài mòn.

- Giá nâng yên xe phía sau bị gãy vỡ rời khỏi xe. Điểm gãy bên trái tiếp giáp với ốc vít giữ, điểm gãy bên phải cách từ ốc vít giữa ra 15cm. phần cuối cùng của điểm gãy bên phải còn bám dính chất sơn màu xanh ( giống màu sơn xe ô tô liên quan vụ tai nạn). tâm vết bám dính sơn cách mặt đất lên 85cm.

- Toàn bộ đèn hậu và đèn xi nhan sau 2 bên bị gãy vỡ, rời khỏi xe. Tâm của vùng đèn cách mặt đất lên 70cm.

- Ốp đèn chiếu biển số bị gãy vỡ, mặt sau có cả vết xước mài mòn nhựa kích thước (2x5)cm, chiều hướng từ sau ra trước.

- Biển số, phần bên trái bị cong vênh, xô từ trước ra sau 3cm. Mặt sau phần bên phải biển số có dấu vết cà xước, mài mòn sơn tít kích thước (2,5x2)cm, chiều hướng từ sau ra trước, từ phải qua trái. Trên bề mặt bám dính sơn màu xanh, giống màu sơn xe ô tô liên quan trong vụ tai nạn - Hệ thống an toàn kĩ thuật còn hiệu lực.

4. Dấu vết để lại trên tử thi Nguyễn Thị Quyên Tử thi Nguyễn Thị Q, sinh năm 1971, trú tại khối m, phường M, thị xa H, tỉnh Nghệ An. Tử thi dài: 1,5m, thể trạng: trung bình. Tử thi ngoài quấn khăn y tế màu trắng. Tình trạng tử thi: khô, lạnh.

Về dấu vết:

- Ngực, bụng có vết xây xát trượt da bám lẫn chất màu đen (dạng cao su) kích thước (30x25)cm - Vùng cánh chậu trái xây xát trượt da chảy máu kích thước (7x4)cm - Vùng bẹn cùng đùi phải có vết thương kích thước (4x12)cm - Mặt trong vùng bẹn trái có vết thương rách dọc từ xương mu qua môi lớn xuống đến hậu môn kích thước (20x6)cm, sâu sát thương và vỡ nát xương chậu Ngoài ra còn có nhiều vết xây xước ở chân tay.

5. Kết luận giám định:

- Tại bản giám đinh pháp y số 26/GĐPY này 08/02/2017 của bệnh viện đa khoa huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An xác định: Nạn nhân Nguyễn Thị Q, trú tại khối m. Phường M, thị xã H, tỉnh Nghệ An tử vong do đa chấn thương: Vỡ nát xương chậu mất máu do tai nạn giao thông.

- Tại bản kết luận giám định số: 116/KLGD-PC54 ngày 08/03/2017 của phòng kỹ thuật hình sự Công An tỉnh Nghệ An xác định:

+ Ngay trước thời điểm xảy ra va chạm xe ô tô biển số 29C-303.82 di chuyển ở phần đường bên phải Quốc lộ 1A theo hướng Bắc – Nam (hướng từ TP Hà Nội đi TP Vinh). Xe mô tô biển số 37L1-146.51 di chuyển cùng chiều với xe ô tô biển số 29C-303.82.

+ Vị trí va chạm đầu tiên trên xe ô tô biển số 29C-303.82 là ở góc trước bên trái đầu xe.

+ Vị trí va chạm đầu tiên trên xe mô tô biển số 37L1-146.51 là ở bên phải phần đuôi xe.

+ Góc va chạm khoảng 170 độ + Tư thế khi va chạm: hai phương tiện đang di chuyển

+ Vị trí va chạm của hai phương tiện trên hiện trường: Làn đường ở giữa của phần đường phía Tây đường quốc lộ 1A.

+ Không đủ cơ sở để xác định tốc độ của xe ô tô biển số 29C-303.82 và xe mô tô biển số 37L1-146.51 ngay trước thời điểm xảy ra va chạm.

6. Về trách nhiệm dân sự Sau khi tai nạn xảy ra, đại diện bên lái xe ô tô BKS 29C-303.82 là anh Trần Đình Châu đã thống nhất thỏa thuận và bồi thường chi phí mai táng, tổn thất về tinh thần, vật chất cho gia đình nạn nhân Nguyễn Thị Q số tiền là 100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng), gia đình nạn nhân Nguyễn Thị Quyên đã nhận đủ số tiền trên và không có yêu cầu gì khác, đồng thời có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho Trần Đình C.

Tại bản cáo trạng số: 43/VKS-HS ngày 28/7/2017 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hoàng Mai truy tố Trần Đình C về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo quy định tại khoản 1 điều 202 Bộ luật hình sự.

Với nội dung trên bản án sơ thẩm số 45/2017/HSST ngày 20/9/2017 Tòa án nhân dân thị xã Hoàng Mai đã quyết định: Bị cáo Trần Đình C phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” Áp dụng khoản 1, khoản 5 Điều 202; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trần Đình C 06 (sáu ) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo thi hành án.

Hình phạt bổ sung: Cấm Trần Đình C lái xe ô tô trong thời hạn 01(một ) năm, kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù.

Giao giấy phép lái xe hạng A1, C mang tên Trần Đình C cho cơ quan Cảnh sát giao thông Công an thị xã Hoàng Mai để xử lý theo thẩm quyền.

Ngoài ra Bản án đã tuyên án phí và tuyên quyền kháng cáo đối với bị cáo. Ngày 28 tháng 9 năm 2017 bị cáo Trần Đình Châu viết đơn kháng cáo trình bày: Tòa án nhân dân thị xã Hoàng Mai xử phạt bị cáo 06 tháng tù về tội “vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”. Bị cáo kháng cáo xin được hưởng án treo vì lý do: từ trước đến nay bị cáo chưa bị tiền án tiền sự, chấp hành tốt mọi chính sách đường lối của Đảng, Nhà nước. Sau khi hậu quả xảy ra bị cáo đã khắc phục hậu quả, bồi thường trách nhiệm dân sự. Gia đình nạn nhân đã có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Hoàn cảnh gia đình bố chết còn mẹ già, vợ chết tai nạn giao thông năm 2017, con chưa có, bão số 10 tàn phá nhà sập, hư hỏng nặng. Bị cáo đã thực sự nhận khuyết điểm và thành khẩn khai báo ăn năn hối cải, bị cáo thành thật xin được hưởng án treo để có điều kiện thời gian làm ăn nuôi mẹ già, yếu.

Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo Trần Đình C giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo, mong Toà án cấp phúc thẩm xem xét cho bị cáo được hưởng án treo.

Đại diện Viện kiểm sát đề nghị: Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự, sửa bản án sơ thẩm và giữ nguyên mức hình phạt tù cho bị cáo Trần Đình C được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo, đã khai nhận hành vi phạm tội, phù hợp nội dung cáo trạng và Bản án sơ thẩm, phù hợp các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án.

Bị cáo Trần Đình C có giấy phép lái xe hạng C điều khiển xe ô tô do không làm chủ tốc độ, thiếu quan sát khi trời nhá nhem tối, nhiều xe đi ngược chiều, dẫn đến điều khiển xe ô tô biển số 29C-303.82 đâm vào xe mô tô đi cùng chiều, gây tai nạn làm chết một người. Hành vi của bị cáo là gây nguy hiểm cho xã hội, Toà cấp sơ thẩm đã xem xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ đã xử phạt bị cáo 06 tháng tù là có căn cứ quy định pháp luật.

[2] Bị cáo Trần Đình C kháng cáo xin được hưởng án treo, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy: Sau khi phạm tội bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, tự nguyện khắc phục hậu quả cho gia đình người bị hại; bị cáo có nhân thân tốt, ngoài lần phạm tội này, bị cáo luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật nhà nước, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân; chưa có tiền án tiền sự; có việc làm ổn định, có nơi thường trú rõ ràng. Đại diện người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt và xin cho bị cáo được hưởng án treo, cải tạo tại địa phương. Bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự 1999 nay được quy định điểm b, S khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, không bị tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Hoàn cảnh gia đình bị bão số 10 làm sập nhà, năm 2017 vợ bị cáo bị chết, vợ chồng chưa có con, mẹ đẻ già yếu. Do đó, chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo và đề nghị của đại diện người bị hại, sửa Bản án sơ thẩm, giữ nguyên mức hình phạt, cho bị cáo được hưởng án treo, thử thách một thời gian. Giao bị cáo Trần Đình C cho UBND phường K, thị xã A, tỉnh Hà Tĩnh giám sát và giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương để giáo dục bị cáo theo quy định Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015, như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh tại phiên tòa phúc thẩm.

[3] Về hình phạt bổ sung: Theo khoản 3 Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015, giữ nguyên Quyết định như Bản án sơ thẩm, cấm Trần Đình C lái xe ô tô trong thời hạn 01 (một ) năm, kể từ ngày Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm, không bị kháng cáo, kháng nghị, Toà phúc thẩm không xét, đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[5] Bị cáo Trần Đình C kháng cáo được Tòa án chấp nhận sửa Bản án sơ thẩm nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 355, điểm e khoản 1 điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự.

Sửa bản án sơ thẩm, giữ nguyên mức hình phạt tù và cho bị cáo Trần Đình C hưởng án treo.

Áp dụng khoản 1, khoản 5 Điều 202 Bộ luật hình sự năm 1999; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Trần Đình C 06 (sáu) tháng tù, về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”, cho bị cáo được hưởng án treo, thử thách 12 (mười hai) tháng, thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án phúc thẩm. Giao bị cáo Trần Đình C cho Ủy ban nhân dân phường K, thị xã A, tỉnh Hà Tĩnh theo dõi và giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Gia đình Trần Đình C có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Nếu bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

Hình phạt bổ sung: Cấm Trần Đình C lái xe ô tô trong thời hạn 01 (một) năm, kể từ ngày Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật.

2. Về án phí: Bị cáo Trần Đình C không phải chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị, đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

314
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2018/HS-PT ngày 30/01/2018 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

Số hiệu:10/2018/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về