Bản án 10/2017/HNGĐ-ST ngày 19/12/2017 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIỂU CẦN, TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 10/2017/HNGĐ-ST NGÀY 19/12/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 19 tháng 12 năm 2017, tại Phòng xử án Tòa án nhân dân huyện Tiểu Cần xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 07/2017/TLST-HNGĐ, ngày 05/10/2017, về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con”; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2017/QĐXXST- HNGĐ, ngày 20/11/2017, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Ngô Thị Mỹ T, sinh năm 1990, có đơn yêu cầu giải quyết, xét xử vắng mặt;

Cư trú tại: Ấp C, xã L, huyện T, tỉnh Trà Vinh.

2. Bị đơn: Anh Dƣơng Chí L, sinh năm 1989, vắng mặt; Cư trú tại: Ấp N, xã H, huyện T, tỉnh Trà Vinh

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 03/10/2017, trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Ngô Thị Mỹ T trình bày:

Vào ngày 03/01/2009, chị có xác lập quan hệ nhôn nhân với anh Dương Chí L và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã  H, huyện T, tỉnh Trà Vinh. Trong quá trình chung sống vợ chồng chị có 01 đứa con chung tên Dương Thị Mỹ H, sinh ngày 28/8/2009 hiện đang sống với chị.

Về tài sản chung: Khi kết hôn xong, chị về sống chung với gia đình anh L nên không có tạo lập được tài sản chung; Về nợ chung: Không có.

Nguyên nhân mâu thuẫn: Sau ngày cưới vợ chồng chị xảy ra nhiều mâu thuẫn, thường xuyên cãi vã, anh L không lo làm ăn chỉ biết ăn nhậu về nhà còn đánh đập chị nhiều lần nên chị và anh L đã sống ly thân từ năm 2011. Đến năm 2015, chị và anh L quay lại sống chung nhưng giữa vợ chồng chị cự cãi suốt, sống không hạnh phúc nên từ tháng 3/2017 chị và anh L đã sống ly thân cho đến nay. Trong khoảng thời gian sống ly thân thì mạnh ai người đó nấy sống không ai quan tâm ai.

Chị Ngô Thị Mỹ T yêu cầu được ly hôn với anh Dương Chí L.

Về con chung: Chị yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung tên Dương Thị Mỹ H, sinh ngày 28/8/2009, tại đơn khởi kiện ngày 03/10/2017 chị yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con bằng 2.000.000 đồng/tháng nhưng trong quá trình giải quyết vụ án chị thay đổi yêu cầu không yêu cầu anh L phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có nên không yêu cầu xem xét, giải quyết. Nguyên đơn chị Ngô Thị Mỹ T có đơn yêu cầu giải quyết, xét xử vắng mặt.

Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Ngô Thị Mỹ T đã cung cấp cho Tòa án các tài liệu, chứng cứ sau đây: 01 (Một) giấy chứng minh nhân dân (Bản phô tô); 01 (Một) sổ hộ khẩu (Bản phô tô); 01 (Một) đơn xác nhận có đăng ký kết hôn ngày 17/11/2017 (Bản chính); 01 (Một) giấy khai sinh (Bản phô tô có chứng thực).

Đối với bị đơn anh Dương Chí L: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã thực hiện việc tống đạt thông báo về việc thụ lý vụ án, các thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, thông báo về việc yêu cầu cung cấp chứng cứ, quyết định đưa vụ án ra xét xử, giấy triệu tập hợp lệ cho anh L nhưng anh L không đến Tòa án tham gia tố tụng và Tòa án không thể tiến hành lấy lời khai của anh L được và anh L cũng không có ý kiến gì đối với yêu cầu của nguyên đơn theo thông báo mà Tòa án đã tống đạt nên không thể xác định những tình tiết nào của vụ án các bên thống nhất và không thống nhất. Vì vậy, Tòa án căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để xét xử vụ án.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án cho đến xét xử, Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng nhiệm vụ, quyền hạn và tuân thủ đúng trình tự, thủ tục giải quyết vụ án dân sự theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đương sự tham gia tố tụng trong vụ án đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên bị đơn anh Dương Chí L chưa chấp hành đúng theo quy định về việc có mặt tại Tòa án để tham gia phiên họp, hòa giải, xét xử vụ án.

Về nội dung vụ án: Xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị Ngô Thị Mỹ T và anh Dương Chí L đã có mâu thuẫn trầm trọng, hai vợ chồng không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau nên đề nghị Hội đồng xét xử cho chị T được ly hôn với anh L; Về con chung: Cho chị T được tiếp tục nuôi dưỡng con chung Dương Thị Mỹ H, sinh ngày 28/8/2009 là phù hợp với nguyện vọng của cháu H muốn sống với chị T. Chị T không yêu cầu anh L phải cấp dưỡng nên không xem xét, giải quyết; Về tài sản chung, nợ chung: Không có nên đề nghị không xem xét, giải quyết; Về án phí nguyên đơn phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn chị Ngô Thị Mỹ T có đơn yêu cầu giải quyết, xét xử vắng mặt đúng theo quy định; Bị đơn anh Dương Chí L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự vẫn xét xử vụ án vắng mặt chị T, anh L.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Ngô Thị Mỹ T và anh Dương Chí L kết hôn với nhau vào năm 2009 và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã H, huyện T, tỉnh Trà Vinh theo quy định của pháp luật. Xét thấy hôn nhân của anh chị là hợp pháp, phù hợp với quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Tuy nhiên trong thời gian sống chung vợ chồng chị có những mâu thuẫn không thể điều hoà được dẫn đến việc chị T xin ly hôn. Trong quá trình giải quyết vụ án, chị T xác định giữa chị và anh L không còn yêu  thương, quý trọng, chăm sóc lẫn nhau. Chị và anh L đã sống ly thân gần 09 tháng nay, người nào chỉ biết bổn phận của người đó, bỏ mặc nhau và ai muốn sống ra sao thì sống. Trong khoảng thời gian sống ly thân cũng không ai tìm đến ai, điều này chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa chị T và anh L đã mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, nếu có duy trì thì mục đích hôn nhân cũng không đạt được nên Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 cho chị Ngô Thị Mỹ T  được ly hôn với anh Dương Chí L.

[3] Về con chung: Xét thấy, trong thời gian sống ly thân thì con chung Dương Thị Mỹ H, sinh ngày 28/8/2009 do chị Ngô Thị Mỹ T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và chị T vẫn đảm bảo nuôi dưỡng con tốt. Chị T yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung, anh L không có ý kiến. Để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chung và để tránh gây xáo trộn sự phát triển bình thường về tâm sinh lý của con chung chấp nhận cho chị Ngô Thị Mỹ T được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung là phù hợp với nguyện vọng của cháu H muốn sống với chị T. Chị Ngô Thị Mỹ T không yêu cầu anh Dương Chí L cấp dưỡng nên không xem xét, giải quyết.

[4] Về tài sản chung: Chị Ngô Thị Mỹ T khai chị và anh L không có tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết. Do Tòa án không thể làm việc trực tiếp với anh Dương Chí L để biết ý kiến của anh như thế nào về tài sản chung và anh L có tranh chấp về tài sản chung với chị T hay không. Vì vậy, nếu sau khi ly hôn anh Dương Chí L có tranh chấp về tài sản chung với chị T thì anh L được quyền khởi kiện vụ án tranh chấp chia tài sản chung sau khi ly hôn với chị Ngô Thị Mỹ T.

[5] Về nợ chung: Không có nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[6] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[7] Về đề nghị của Kiểm sát viên: Xét thấy, đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên toà hôm nay về việc giải quyết vụ án là có căn cứ để chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 228, 273, 280  của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ các Điều 51, 56, Điều 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Ngô Thị Mỹ T; Cho chị Ngô Thị Mỹ T được ly hôn với anh Dương Chí L.

2. Về con chung: Chị Ngô Thị Mỹ T được tiếp tục nuôi dưỡng con chung tên Dương Thị Mỹ H, sinh ngày 28/8/2009 là phù hợp với nguyện vọng của con chung được sống với chị T. Chị Ngô Thị Mỹ T không yêu cầu anh Dương Chí L cấp dưỡng nuôi con chung nên không xem xét, giải quyết.

Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3. Về tài sản chung: Chị Ngô Thị Mỹ T khai không có nên không xem xét, giải quyết. Nếu sau khi ly hôn anh Dương Chí L có tranh chấp về tài sản chung thì anh Dương Chí L được quyền khởi kiện vụ án tranh chấp chia tài sản chung sau khi ly hôn với chị Ngô Thị Mỹ T.

4. Về nợ chung: Không có nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

5. Về án phí: Chị Ngô Thị Mỹ T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số 0011618, ngày 05/10/2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tiểu Cần. Chị Ngô Thị Mỹ T đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm. Anh Dương Chí L không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Chị Ngô Thị Mỹ T, anh Dương Chí L vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết công khai nơi cư trú để xin Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

256
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2017/HNGĐ-ST ngày 19/12/2017 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:10/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiểu Cần - Trà Vinh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về