TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VÂN HỒ - TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 101/2019/HS-ST NGÀY 14/11/2019 VỀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 14 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân hyện V, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 100/2019/TLST-HS ngày 25 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 102/2019/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:
Mùa A Đ; tên gọi khác: Không, sinh năm 1990 tại hyện V, tỉnh Sơn La. Nơi cư trú: Bản P, xã V, hyện V, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hoá: 11/12; dân tộc: Mông; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Mùa A V (đã chết) và bà Sồng Thị M, sinh năm 1964, bị cáo có vợ là Tráng Thị V, sinh năm 1992 và 02 con; tiền án: Không; tiền sự: Không. Bị bắt giam giữ ngày 23/08/2019, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện M, tỉnh Sơn La. Có mặt.
Những người làm chứng:
- Anh Mùi Văn V, sinh năm 1980, nơi cư trú: Bản P, xã M, hyện V, tỉnh Sơn La. Vắng mặt.
- Nguyễn Quốc Tr, sinh năm 1987, nơi cư trú: Tiểu khu Kh, thị trấn Nông trường M, huyện M, tỉnh Sơn La. Vắng mặt.
Người chứng kiến: Anh Mùa A T, sinh năm 1982; Nơi cư trú: Bản P, xã V, hyện V, tỉnh Sơn La. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 10 giờ 10 phút ngày 23/8/2019, tổ công tác Công an hyện V làm nhiệm vụ tại khu vực bản P, xã V, hyện V, tỉnh Sơn La, tiến hành kiểm tra đối với Mùa A Đ đang ở tại nhà riêng. Qua kiểm tra phát hiện Mùa A Đ đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, tang vật thu giữ gồm 01 gói nilon màu xanh bên trong đựng 04 viên nén màu hồng bề mặt mỗi viên đều có ký hiệu WY. Mùa A Đ khai nhận đó là Hồng phiến của Mùa A Đ tàng trữ để sử dụng. Cùng có mặt trong nhà Đ có Mùi Văn V và Nguyễn Quốc Tr đến hỏi mua ma túy nhưng Đ không bán. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng đồng thời dẫn giải Mùa A Đ, Mùi Văn V, Nguyễn Quốc Tr đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an hyện V để điều tra làm rõ.
Cùng ngày, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an hyện V tiến hành cân tịnh, xác định khối lượng số viên nén màu hồng thu giữ của Mùa A Đ được 0,34 gam lấy 0,17 gam làm mẫu ký hiệu Đ. Mẫu giám định Đ được Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La giám định chất ma túy, loại chất ma túy, khối lượng ma túy.
Tại kết luận giám định số: 1424 ngày 27/8/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La đã kết luận:“Mẫu gửi giám định ký hiệu Đ là ma túy loại Methamphetamine, tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,17 gam, tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,34 gam Methamphetamine”.
Cáo trạng số 100/CT-VKS ngày 25/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân hyện V, tỉnh Sơn La đã truy tố bị cáo Mùa A Đ về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát hyện V giữ nguyên quyết định truy tố về tội danh và điều luật áp dụng như nội dụng cáo trạng; qua phân tích, đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và nhân thân bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố bị cáo Mùa A Đ phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Mùa A Đ từ 16 (mười sáu) tháng tù đến 20 (hai mươi) tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với Mùa A Đ.
Về vật chứng vụ án đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì đã niêm phong bên trọng đựng 0,17 gam Methamphetamine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu, 03 phong bì niêm phong bên trong đựng que thử ma túy đối với Mùa A Đ, Mùi Văn V, Nguyễn Quốc Tr.
Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Ý kiến bị cáo: Nhất trí với quan điểm truy tố và luận tội của Kiểm sát viên không có tranh luận gì.
Bị cáo nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an hyện V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân hyện V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố Mùa A Đ về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến và khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.
[2]. Về chứng cứ xác định có tội: Tại phiên tòa bị cáo Mùa A Đ khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và được chứng minh bằng các tài liệu chứng cứ sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Biên bản niêm phong đồ vật tài liệu bị tạm giữ, Kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, Lời khai của người chứng kiến, Bản tự khai, Biên bản ghi lời khai, Biên bản hỏi cung bị can thể hiện: Ngày 23/8/2019, bị cáo Mùa A Đ đã có hành vi tàng trữ 0,34 gam Methamphetamine mục đích để sử dụng cho bản thân. Trên cơ sở đó, có đủ căn cứ kết luận bị cáo Mùa A Đ phạm tội: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
[3]. Các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo là người dân tộc thiểu số, nhận thức pháp luật còn hạn chế là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, làm lây lan phát sinh các tệ nạn xã hội, gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân, gây mất trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn tàng trữ ma túy để sử dụng. Vì vậy, cần lên một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, đồng thời để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội.
Bị cáo Mùa A Đ đang bị tạm giam, Hội đồng xét xử thấy cần tiếp tục tạm giam bị cáo trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Ngoài hình phạt chính là phạt tù bị cáo Mùa A Đ có thể phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo là người nghiện ma túy, không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[4]. Đối với việc Mùi Văn V, Nguyễn Quốc Tr đến hỏi mua ma túy của Mùa A Đ nhưng Đ không bán. V và Tr không liên quan đến hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của Mùa A Đ. Do vậy Ngày 23/8/2019 Cơ quan điều tra đã trả tự do đối với Mùi Văn V, Nguyễn Quốc Tr đồng thời Cơ quan CSĐT công an hyện V có công văn đề nghị UBND thị trấn Nông trường M, huyện M và UBND xã, hyện V áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, thị trấn là có căn cứ.
[5]. Đối với nguồn gốc số ma túy thu giữ: Theo lời khai của Mùa A Đ mua của một người đàn ông dân tộc mông, không quen biết tại khu vực bản P, xã V, hyện V. Do đó, cơ quan điều tra không có cơ sở điều tra làm rõ buộc Mùa A Đ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về số ma túy đã thu giữ.
[6]. Về vật chứng của vụ án: Đối với 01 phong bì đã niêm phong bên trong đựng 0,17 gam Methamphetamine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu, 03 phong bì niêm phong bên trong đựng que thử ma túy đối với Mùa A Đ, Mùi Văn V, Nguyễn Quốc Tr là vật cấm lưu hành, không còn giá trị sử dụng tuyên tịch thu tiêu hủy.
[7]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, 2 Điều 51; điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; các điểm a, c khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1.Tuyên bố bị cáo Mùa A Đ phạm tội: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy.
Xử phạt bị cáo Mùa A Đ 16 (mười sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 23/8/2019.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
2. Về vật chứng vụ án: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì đã niêm phong bên trong đựng 0,17 gam Methamphetamine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu, 03 phong bì niêm phong bên trong đựng que thử ma túy đối với Mùa A Đ, Mùi Văn V, Nguyễn Quốc Tr
3. Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 101/2019/HS-ST ngày 14/11/2019 về tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 101/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Vân Hồ - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về