Bản án 100/2021/HS-ST ngày 29/06/2021 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BẾN CÁT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

 BẢN ÁN 100/2021/HS-ST NGÀY 29/06/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 29 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở, Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương mở phiên tòa, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 89/2021/HSST ngày ngày 24 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 81/2021/QĐXXST–HS ngày 15 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn L, sinh năm 1997, tại tỉnh NghA; hộ khẩu thường trú: X 2, xã LS, huyện ĐL, tỉnh NghA; Chổ ở: Ấp KA, xã AĐ, thị xã BC, tỉnh B D; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn V, sinh năm 1966 và bà Lê Thị H, sinh năm 1968; bị cáo có 03 chị em, lớn nhất sinh ăm 1991, nhỏ nhất sinh năm 1993.

Tiền án, tiền sự: Không.

Ngày 05/01/2021, L ra đầu thú và bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Bến Cát cho đến nay. Có mặt.

- Bị hại: Ông Vi Văn H, sinh năm 1995; hộ khẩu thường trú: Thôn LN, xã Ia L, huyện Ea S, tỉnh Đ L. Có mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Nguyễn Thị Quỳnh L, sinh năm 1991; hộ khẩu thường trú: Xóm YPh, xã ThY, huyện ThCh, tỉnh NghA; địa chỉ tạm trú: Ấp KA, xã AĐ, thị xã BC, tỉnh BD. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn L và Vi Văn H là bạn bè làm chung bộ phận kiểm hàng của công ty TNHH Castec Vina. L làm tổ trưởng, còn H là công nhân.

Vào lúc 20 giờ ngày 05/01/2021, Công ty thông báo cho công nhân không phải tăng ca cho L nhưng L không nói với H biết. Đến 20 giờ 37 phút cùng ngày, L mới nhắn tin qua Zalo cho H biết. H gọi điện cho L nói tại sao không nói cho H biết. L và H xảy ra cự cãi nhau trên điện thoại. H nhắn tin cho L hẹn L ra đường NA3 giao nhau với DA3 để nói chuyện. L đồng ý. Do sợ bị H đánh nên L lấy một con dao lưỡi bằng kim loại nhọn, cán gỗ dài khoảng 20cm để trên cổ cốp xe mô tô (không rõ biển số) rồi điều khiển xe mô tô đi đến đường NA3, thuộc khu phố 4, phường Mỹ Phước. L đến đường NA3 được khoảng 03 phút thì anh Vi Văn L, sinh năm 1992, hộ khẩu thường trú: thôn LN, xã XL, huyện ES, tỉnh ĐL chở H đến. Khi H đến vừa xuống xe L dùng nón bảo hiểm đánh H 02 đến 03 cái vào mặt của H thì H đưa tay lên đỡ được. L tiếp tục dùng tay đánh vào mặt của H 02 đến 03 cái. L nói với H có gì ngày mai vào công ty nói chuyện, sau đó L đi về. L đi được khoảng 03 mét thì H chửi L. Lúc này, L quay xe lại đi đến chỗ H. L xuống xe lấy con dao trên cổ cốp xe bỏ vào túi quần. H đến nắm cổ áo L và đánh vào mặt L 02 cái, L cúi người xuống, H ôm L từ sau ra trước. Lúc này, L dùng tay phải lấy con dao trong túi quần của mình ra cầm trên tay phải mũi dao hướng lên trên, L quơ dao từ phải sang trái về hướng sau lưng của L để đâm H. L đâm H 03 cái liên tiếp trúng vào bụng, hông sườn bên trái của H làm H té xuống đất. Lúc này, anh Đồng Văn Bắ, sinh năm 1992, hộ khẩu thường trú: X 6, xã NgT, huyện NgS, tỉnh ThH là anh rễ của L chạy đến thấy H bị L gây thương tích nên đã đưa H đi cấp cứu tại Bệnh viện Mỹ Phước. Sau khi gây thương tích cho H, L đi về nhà tại ấp Kiến An, xã An Điền tắm rửa. Đến 22 giờ cùng ngày, L đến Đồn Công an khu công nghiệp Mỹ Phước đầu thú.

Đối với Vi Văn H được cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa Mỹ Phước sau đó chuyển đến Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình Dương chữa trị đến ngày 13/01/2021 được xuất viện.

Vật chứng thu giữ: 01 (một) con dao lưỡi nhọn, cán gỗ dài khoảng 20cm. Theo Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 70/2021/GĐPY ngày 09/02/2021 của Trung tâm pháp y Sở y tế tỉnh Bình Dương kết luận:

1. Dấu hiệu chính qua giám định:

- Chấn thương đầu, chấn thương chảy máu mũi đã lành.

- Vết thương lưng trái 1,8x0,2cm, sẹo lành.

- Vết thương khoảng liên sườn 12 đường nách giữa trái 2,2 x 0,1cm, thấu ngực – bụng, lối mạc nối, thủng cơ hoành trái, rách cực dưới lách, thủng thận trái, đã phẫu thuật khâu cơ hoành trái, khâu bảo tồn thận trái, vết dẫn lưu màng phổi trái 2 x 0,3cm, vết dẫn lưu hố cH trái 1,3 x 0,3 cm, vết mổ đường giữa bụng trên đươi rốn 14 x 0,2cm, sẹo lành.

2. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 50% (năm mười phần trăm) theo bảng tỷ lệ tổn thương cơ thể ban hành kèm theo Thông tư số 22/2019/TT-BYT do Bộ y tế ban hành ngày 28/8/2019 3. Cơ chế hình thành vết thương:

- Chấn thương đầu, chấn thương chảy máu mũi: hiện đã lành, không còn dấu tích nên không xác định được cơ chế hình thành vết thương.

- Vết thương lưng trái: Chiều từ trên xuống, hướng từ sau ra trước, bờ sắc gọn, khả năng do vật sắc nhọn gây ra.

- Vết thương khoảng liên sườn 12 đường nách giữa trái, thấu ngực bụng, lồi mạc nối, thủng cơ hoành, thủng lách, thủng thận trái: Sẹo nhiều từ trên xuống, hướng từ trái qua phải, bờ sắc gọn, khả năng do vật sắc nhọn gây ra.

Về trách nhiệm dân sự: Ông Vi Văn H yêu cầu Nguyễn Văn L phải bồi thường số tiền 108.600.000 đồng, trong đó số tiền chí phí nằm viện 17.000.000 đồng, tiền tổn hại sức khỏe 74.000.000 đồng, tiền không làm việc được trong 03 tháng là 17.100.000 đồng. Quá trình điều tra, chị Nguyễn Thị Quỳnh L là chị gái của bị cáo Nguyễn Văn L đã bồi thương cho Vi Văn H số tiền 12.000.000 đồng. Anh H yêu cầu bị cáo tiếp tục phải bồi thường số tiền 96.600.000 đồng.

Tại bản Cáo trạng số 93/CT-VKS-BC ngày 24/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát truy tố bị cáo Nguyễn Văn L về tội: “Cố ý gây thương tích” theo điểm c khoản 3 Điều 134 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Sau khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đã ra Công an thị xã Bến Cát đầu thú.

Tại phiên Tòa, bị hại anh Vi Văn H yêu cầu xử lý hình sự đối với bị cáo Nguyễn Văn L theo quy định pháp luật. Về dân sự buộc Nguyễn Văn L tiếp tục bồi thường số tiền 96.600.000 đồng, bị cáo L đồng ý bồi thường số tiền theo yêu cầu của bị hại.

Tại phiên tòa, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Quỳnh L trình bày, số tiền 12.000.000 đồng là tiền của bà thay mặt cho bị cáo bồi thường cho anh Vi Văn H để khắc phục một phần H quả do bị cáo L gây ra, bà không yêu cầu bị cáo L hoàn trả lại.

Qua tranh tụng công khai tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm kết tội bị cáo Nguyễn Văn L theo tội danh, điều luật như bản Cáo trạng số 93/CT-VKS-BC ngày 24/5/2021 đã truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 3 Điều 134, điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L mức án từ 07 (bảy) đến 08 (tám) năm tù. Phần dân sự, đề nghị Hội đồng ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo bồi thường cho bị hại số tiền 96.600.000 đồng và xử lý vật chứng theo quy định pháp luật.

Tại phần tranh luận, bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện Kiểm sát. Bị cáo L thống nhất với tội danh, điều luật và mức hình phạt mà đại diện Viện Kiểm sát đề nghị, đồng ý bồi thường chi phí điều trị và các khoản khác số tiền còn lại là 96.600.000 đồng theo yêu cầu của bị hại.

Bị hại anh Vi Văn H yêu cầu Tòa án xét xử bị cáo về tội danh giết người mới đúng với tính chất hành vi bị cáo gây ra. Tranh luận lại với bị hại, đại diện Viện kiểm sát cho rằng không có căn cứ để xem xét bị cáo phạm tội giết người vì hành vi bị cáo không có mục đích cố sát, không cố ý dùng hung khí nguy hiểm nhắm vào vùng nguy hiểm của bị hại để thực hiện hành vi cố ý gây thương tích. Sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát phân tích và giải thích bị hại không có ý kiến tranh luận lại và đồng ý với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng bị cáo mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo có cơ hội sớm về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên và bị cáo, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Tuy nhiên, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai nhận có dùng nón bảo hiểm đánh vào đầu bị hại 02, 03 cái, đều này phù hợp với kết luận giám định thương tật của cơ quan chuyên môn, phù hợp với lời khai của bị hại nhưng cơ quan cảnh sát điều tra không thu giữ nón bảo hiểm mà bị cáo dùng đánh bị hại là có thiếu sót. Mặc dù thiếu sót này không ảnh hưởng đến kết quả giải quyết vụ án nhưng cũng cần phải rút kinh nghiệm.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Văn L Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Văn L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản Cáo trạng số 93/CT-VKS-BC ngày 24/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát mô tả và truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, cùng các tài liệu, chứng cứ được thu thập có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra và tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Khoảng 21 giờ 48 phút ngày 05/01/2021, tại đường NA3 giao nhau với đường DA3 thuộc khu phố 3, phường Mỹ Phước, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương, Nguyễn Văn L có hành vi dùng con dao lưỡi nhọn, cán gỗ dài khoảng 20cm gây thương tích cho anh Vi Văn H với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 50%. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3] Về tính chất, các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo.

[3.1] Về tính chất: Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, biết việc dùng hung khí nguy hiểm “dao nhọn” gây thương tích cho người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến sức khỏe của bị hại, có khả năng làm cho bị hại bị tử vong. Ngoài ra hành vi của bị cáo còn làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự công cộng tại địa phương. Do đó, cần phải xét xử bị cáo thật nghiêm để giáo dục, răn đe và phòng ngửa chung và để thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật.

[3.2] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo tích cực vận động gia đình bồi thường một phần thiệt hại cho bị hại và đầu thú sau khi gây án đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm được quy định tại các điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3.3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.

[3.4] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt chưa có tiền án, tiền sự.

[4] Về hình phạt: Xét mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên Hội đồng xét xử quyết định hình phạt tù có thời hạn. Tuy nhiên, khi lượng hình có xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm mà bị cáo được hưởng để giảm một phần hình phạt cho bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại anh Vi Văn H yêu cầu Nguyễn Văn L tiếp tục bồi thường số tiền là 96.600.000 đồng. Bị cáo đồng ý bồi thường cho H là đúng quy định tại Điều 288 Bộ luật dân sự nên chấp nhận.

[6] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 dao lưỡi nhọn, cán gỗ dài khoảng 20cm: Đây là công cụ bị cáo dùng vào việc phạm tội, không còn giá trị sử dụng nên Hội đồng xét xử quyết định tịch thu tiêu hủy.

[7] Như vậy, bản Cáo trạng số 93/CT-VKS-BC ngày 24/5/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát và quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, kết tội bị cáo Nguyễn Văn L về tội: “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị là có cơ sở chấp nhận.

Tuy nhiên, đại diện Viện đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục H quả theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là không có căn cứ chấp nhận. Bởi lẽ bị cáo gây thiệt hại sức khỏe cho bị hại phải điều trị số tiền 108.600.000 đồng nhưng gia đình bị cáo mới bồi thường cho bị hại số tiền 12.000.000 đồng là quá nhỏ, tình tiết này là chỉ khắc phục một phần thiệt hại nên chỉ được xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn L phạm tội: “Cố ý gây thương tích”.

1. Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L 07 (bảy) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 05/01/2021.

2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng các Điều 288, 584, 585 và 589 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Buộc bị cáo Nguyễn Văn L bồi thường cho anh Vi Văn H số tiền 96.600.000 đồng (chín mươi sáu triệu sáu trăm nghìn đồng).

Kể từ ngày án có hiệu lực thi hành và có đơn yêu cầu thi hành án của ông Vi Văn H cho đến khi thi hành án xong, hàng tháng bị cáo Nguyễn Văn L còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

3. Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017; khoản 1 và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy: 01 dao lưỡi nhọn, cán gỗ dài khoảng 20cm.

Vật chứng được lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã Bến Cát, theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 03/6/2021 giữa cơ quan Thi hành án Dân sự thị xã Bến Cát với Công an thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.

4. Về án phí: Căn cứ các Điều 135; 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Văn L phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và số tiền 4.830.000 đồng (bốn triệu tám trăm ba mươi nghìn đồng) đồng tiến án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về kháng cáo: Bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014)./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 100/2021/HS-ST ngày 29/06/2021 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:100/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về