Bản án 100/2021/HS-ST ngày 15/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ D, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 100/2021/HS-ST NGÀY 15/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 04 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 43/2021/TLST- HS ngày 04 tháng 02 năm 2021, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 90/2021/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 04 năm 2021, đối với bị cáo:

Nguyễn Văn Q, sinh năm 1987 tại tỉnh Hà Tĩnh; thường trú: Xóm H, xã C, huyện C, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 7/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1948 và bà Đỗ Thị P, sinh năm: 1953; có 04 anh chị em, lớn nhất sinh năm 1980, nhỏ nhất sinh năm 1993; có vợ tên Bùi Thị C, sinh năm 1990, có 02 con, lớn sinh năm 2014, lớn sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 30/09/2016 bị Tòa án nhân dân thành phố D (thị xã D cũ) xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy; bị bắt tạm giam ngày 24/10/2020, có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Huỳnh Thị D, sinh năm 1982; địa chỉ: Khu phố T, phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

- Người chứng kiến: Anh Nguyễn Anh T; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ ngày 24/10/2020 Nguyễn Văn Q điều khiển xe mô tô biển số 61D1-21007 từ phòng trọ tại phường A, thành phố D, đến khu vực bến xe A, quận, thành phố Hồ Chí Minh, gặp người đàn ông tên T không rõ lai lịch hỏi mua 1.000.000 đồng ma túy, loại Heroin, gồm 01 túi nylon miệng kéo dính lớn, bên trong có 04 gói nylon hàn kín bên trong có lớp giấy bạc chứa chất bột màu trắng. Q cất số ma túy trên vào túi quần trước bên trái và điều khiển xe mô tô về nhà trọ. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày, khi đến khu phố B, phường A, thành phố D, thì gặp Công an phường A đang tuần tra thấy Q có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu dừng xe kiểm tra. Khi thấy lực lượng tuần tra Q bỏ chạy và lấy túi nylon ma túy trong túi quần ném xuống đất thì bị lực lượng tuần tra phát hiện bắt giữ và tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Vật chứng thu giữ:

- 01 túi nilon miệng kéo dính bên trong có 01 gói nilon lớn màu xanh hàn kín bên trong có lớp giấy bạc chứa chất bột màu trắng (ký hiệu M1) và 03 gói nilon nhỏ màu xanh hàn kín bên trong có lớp giấy bạc chứa chất bột màu trắng (ký hiệu M2).

- 01 xe môtô hiệu Yamaha Cuxi màu trắng tím biển số 61D1-21007.

Kết luận giám định số 675/MT-PC09 ngày 30/10/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương: Mẫu chất bột màu trắng gửi giám định là ma túy, có khối lượng M1 = 0,3555 gam, M2 = 0,2505 gam, loại Heroine. Ma túy còn lại sau giám định là M1= 0,2958 gam, M2= 0,2121 gam, loại Heroine.

Xử lý vật chứng:

Đối với 01 xe môtô Yamaha Cuxi màu trắng tím biển số 61D1-21007, số khung RLCC1DW10AY004027, số máy 1DW1-004033 của bà Huỳnh Thị Diệp, Q mượn để sử dụng đi lại, bà D không biết Q sử dụng xe để đi mua ma túy, đã trả lại xe cho bà D.

Đối với thanh niên tên Tuấn bán ma túy cho Nguyễn Văn Q hiện chưa rõ nhân thân, lai lịch nên tiếp tục điều tra, xử lý sau.

Tại cáo trạng số 65/CT–VKS ngày 03 tháng 02 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Nguyễn Văn Q về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố D giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Q mức án từ 01 năm 09 tháng đến 02 năm tù.

Về xử lý vật chứng: Đối với bì thư niêm phong bên trong chứa 0,2958 gam (M1); 0,2121 gam (M2) là ma túy, loại Heroine là mẫu vật hoàn lại sau giám định cần tịch thu tiêu hủy.

Tại phiên tòa, bị cáo không tranh luận, đối đáp gì và thực hiện lời nói sau cùng xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố D, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng cũng không khiếu nại gì. Tại cơ quan điều tra, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người chứng kiến không có ý kiến gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Nội dung vụ án: Khoảng 15 giờ ngày 24/10/2020, tại khu phố B, phường A, thành phố D, tỉnh Bình Dương, Nguyễn Văn Q có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, tổng khối lượng là 0,606 gam ma túy, loại Heroine. Hành vi của Nguyễn Văn Q đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015. Như vậy Cáo trạng số 65/CT–VKS ngày 03 tháng 02 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương và luận tội của Kiểm sát viên đề nghị đối với bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện là rất nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tù tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến vai trò của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đủ để giáo dục, cải tạo và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Về nhân thân: Bị cáo nhân thân xấu nghiện ma túy và đã bị Tòa án xét xử về tội Mua bán trái phép chất ma túy.

[7] Xử lý vật chứng: Đối với bì thư đã niêm phong bên trong chứa 0,2958 gam (M1); 0,2121 gam (M2) ma túy, loại Heroine là mẫu vật hoàn lại sau giám định cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Mức hình phạt của đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Đối với người thanh niên tên T bán ma túy cho Nguyễn Văn Q hiện chưa rõ nhân thân, lai lịch nên tiếp tục điều tra, xử lý sau.

[10] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Q phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Q 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 24/10/2020.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy bì thư đã niêm phong bên trong chứa 0,2958 gam (M1);

0,2121 gam (M2) ma túy, loại Heroine là mẫu vật hoàn lại sau giám định.

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Văn Q phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

157
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 100/2021/HS-ST ngày 15/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:100/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Dầu Tiếng - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về