Bản án 100/2020/HS-ST ngày 07/08/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI DƯƠNG, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 100/2020/HS-ST NGÀY 07/08/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương; Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 96/2020/TLST - HS ngày 16/7/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 90/2020/QĐXXST - HS ngày 27 tháng 7 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Nghiêm Thị Ph, sinh năm 1959 ĐKHKTT : Số 4/60 Q, phường B, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương ; Chỗ ở : Khu 16, phường N, thành phố H, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 01/10; Dân tộc: kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nghiêm Trọng T (đã chết) và bà Ngô Thị V (đã chết); Có chồng là Trần Văn Tr và 02 con;

Tiền án, tiền sự : Không.

Nhân thân : Bản án số 156/2005/HSST ngày 01/11/2005 của TAND thành phố Hải Dương xử phạt 09 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy; Hình phạt bổ sung : 5.000.000đ ; Án phí hình sự sơ thẩm 50.000đ. Nộp tiền phạt và án phí ngày 18/7/2008, 24/6/2006, 29/3/2006. Ngày 30/8/2011 được đặc xá.

Bị cáo bị tạm giữ ngày từ 21/4/2020, chuyển tạm giam từ ngày 27/4/2020 đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương. (có mặt tại phiên tòa).

2. Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1981 ĐKHKTT và chỗ ở : Thôn T, xã G, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 7/10; Dân tộc: kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn Ph (đã chết) và bà Tăng Thị M (đã chết);

Tiền sự : Không.

Tiền án : Bản án số 17/2005/HSST ngày 21/9/2005 của Tòa án nhân dân huyện G, tỉnh Hải Dương xử phạt 27 tháng tù về tội Đánh bạc, thời gian tính từ ngày bắt tạm giam 11/5/2005 (số tiền đánh bạc 13.610.000đồng). Phạt 3.000.000 đồng. Án phí 50.000đ. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 11/5/2007.

Đạo chưa nộp 50.000đ án phí và 3.000.000đ tiền phạt.

Nhân thân:

- Bản án số 08 ngày 18/5/2000 của Tòa án nhân dân huyện G xử phạt 15 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản công dân, thời gian tính từ ngày tạm giam 12/01/2000 (trị giá tài sản chiếm đoạt là 3.560.000đồng). Đ liên đới bồi thường cho chị Tăng Thị T ở T, xã G 168.000 đồng; Bồi thường cho chị Lê Thị L ở T, G 13.400 đồng; Bồi thường cho chị Hồ Thị N ở T, G 23.400 đồng; Bồi thường cho anh Lê Văn Th ở Phúc T, Gia T 650.000 đồng. Bị cáo Đ phải chịu 50.000 đồng án phí STHS, 50.000đ APDSST. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 12/4/2001. Ngày 5/4/2006, Đ đã nộp án phí 100.000 đồng. Còn đối với số tiền Đ phải bồi thường chị Tăng Thị Th, Lê Thị L, Hồ Thị N, anh Lê Văn Th đến nay những người trên xác định không yêu cầu Đ bồi thường số tiền trên.

- Bản án số 14 ngày 10/7/2003 của Tòa án nhân dân huyện G xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, thời gian tính từ ngày đi thi hành án (trị giá tài sản chiếm đoạt là 152.000 đồng). Án phí 50.000đ. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 20/10/2004. Đ đã nộp 50.000đ án phí.

- Bản án số 51/2007/HSST ngày 30/10/2007, của Tòa án nhân dân huyện G xử phạt Đ 15 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, thời gian tính từ ngày tạm giam 11/9/2007 (số tiền chiếm đoạt 100.000đồng). Án phí 50.000đ. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 11/12/2008. Đ đã nộp 50.000đ án phí HSST ngày 23/10/2008.

- Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 158 ngày 25/12/1998, Công an huyện G, tỉnh Hải Dương phạt Nguyễn Văn Đ 150.000đ về hành vi Trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa. Nộp phạt ngày 25/12/1998.

- Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 157/QĐ – XPHC ngày 18/9/2009, công an huyện G, tỉnh Hải Dương phạt Nguyễn Văn Đ 150.000đ về hành vi Trộm cắp tài sản. Qua xác minh tại Công an huyện G hồ sơ lưu trữ chỉ có QĐ xử phạt vi phạm hành chính đối với Đ, không có biên lai nộp phạt, không có tài liệu đôn đốc việc nộp phạt đối với Đ.

Bị cáo bị tạm giữ ngày từ 21/4/2020, chuyển tạm giam từ ngày 24/4/2020 đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương. (có mặt tại phiên tòa).

* Người làm chứng:

- Ông Vũ Viết Ph, sinh năm 1960 Nơi cư trú: 71 T, phường T, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương. (Vắng mặt).

- Anh Nguyễn Việt H, sinh năm 1985 Nơi cư trú: Khu 20, phường Ng, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 15h30' ngày 21/4/2020, tại khu vực trước cổng Giáo sứ K, khu 16, phường Ng, thành phố Hải Dương; Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an thành phố Hải Dương kiểm tra phát hiện bắt quả tang Nguyễn Văn Đ cất giấu trái phép trong túi quần bên trái đang mặc của Đ 01 gói giấy bạc, bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng, kích thước khoảng (0,5 x 1) cm đi tìm nơi sử dụng. Đ khai nhận đó là Heroin mà Đ vừa mới mua được của Nghiêm Thị Ph ở khu 16, phường Ng, TP Hải Dương. Lực lượng Công an thu giữ 01 xe mô tô kiểu dáng Waves màu đen, biển kiểm soát 34B2 – 293.81 do Đ điều khiển. Cơ quan CSĐT Công an thành phố Hải Dương đã lập biên bản bắt người trong trường hợp quả tang, có sự làm chứng của ông Lê Văn Ch và ông Nguyễn Việt H.

Quá trình điều tra làm rõ: Khoảng 07 giờ ngày 21/4/2020, Nghiêm Thị Ph đi ra khu vực trung tâm điều trị HIV- AIDS đường N, thành phố Hải Dương, mục đích tìm mua Heroine bán kiếm lời. Ph gặp một người đàn ông không quen biết và hỏi mua được 02 gói heroine với giá 150.000 đồng và giấu vào trong túi áo đang mặc để ai mua thì bán với giá 100.000đồng 01 gói. Sau khi mua được ma túy Ph đi về chỗ ở tại khu K, phường Ng, thành phố Hải Dương, trên đường đi Ph làm rơi một gói heroine. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày, khi Ph đang ở nhà thì có Nguyễn Văn Đ là đối tượng sử dụng Heroine điều khiển xe mô tô kiểu dáng Wave S, biển kiểm soát 34B2 - 293.81 đến nhà Ph, hỏi mua ma túy để sử dụng cho bản thân. Tại đây, Đ gặp Ph ở cửa nhà, Đ hỏi Ph mua 01 gói Heroine với giá 100.000 đồng, nhưng Đ không có tiền và bảo Ph cho nợ lúc khác trả. Ph đồng ý và bán cho Đ 01 gói Heroine. Đ cầm ma túy cất giấu vào trong túi quần bên trái rồi đi tìm nơi sử dụng. Khoảng 30 phút sau, Đ đi đến khu vực trước cổng giáo sứ K, phường Ng, thành phố Hải Dương thì bị Tổ công tác của Đội CSĐT tội phạm về ma túy Công an thành phố Hải Dương trong khi làm nhiệm vụ kiểm tra, bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Kết luận giám định số 195/TB- PC09 ngày 23/4/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương kết luận: Chất bột (dạng cục) màu trắng, niêm phong trong phong bì ghi thu của Nguyễn Văn Đạo, gửi đến giám định khối lượng là: 0,154 gam, là ma túy, loại Heroine.

Heroine nằm trong danh mục I, STT: 9, Nghị định 73/2018/NĐ- CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Hoàn lại đối tượng giám định 0,101g Heroine trong phong bì niêm phong số 195/KLGĐ - PC 09.

Quá trình điều tra Nghiêm Thị Ph đã khai nhận hành vi bán trái phép chất ma túy cho Đ để kiếm lời; Nguyễn Văn Đ đã khai nhận hành vi mua ma túy của Nghiêm Thị Ph mục đích để sử dụng cho bản thân.

Tại bản cáo trạng số 95/CT- VKS ngày 15/7/2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương truy tố bị cáo Nghiêm Thị Ph về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự; Nguyễn Văn Đ về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo Nghiêm Thị Ph và Nguyễn Văn Đ đều khai nhận hành vi phạm tội của mình.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố: Bị cáo Nghiêm Thị Ph phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Áp dụng: Khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 51 Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Nghiêm Thị Ph từ 27 đến 30 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 21/4/2020.

Bị cáo Nguyễn Văn Đ phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ từ 15 đến 17 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 21/4/2020.

nh phạt bổ sung: không áp dụng. Về vật chứng: áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 0,101g heroine hoàn lại sau giám định được đựng trong phong bì niêm phong số 195/ KLGĐ - PC 09 của Công an tỉnh Hải Dương và 01 biển kiểm soát 34 B2 - 293.81. Về án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Nghiêm Thị Ph; Bị cáo Nguyễn Văn Đ phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Hải Dương, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định, lời khai của người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 15 giờ ngày 21/4/2020 tại khu vực K, phường N, thành phố Hải Dương, Nghiêm Thị Ph có hành vi bán trái phép 0,154gam Heroine cho Nguyễn Văn Đ. Đến khoảng 15giờ 30 phút cùng ngày, tại trước cổng Giáo sứ K, khu 16, phường Ng, thành phố Hải Dương, Nguyễn Văn Đạo cất giấu trái phép 0,154gam Heroine để sử dụng thì bị bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Bị cáo Nghiêm Thị Ph và Nguyễn Văn Đ đều là người có đủ năng lực hình sự nhận thức rõ việc mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vì mục đích lợi nhuận, và thỏa mãn nhu cầu của bản thân nên các bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo Nghiêm Thị Ph đã đủ yếu tố cấu thành tội Mua bán trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự; Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn Đ đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Vì vậy Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương truy tố bị cáo Ph và Đ về tội danh, điều luật nêu trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu tới tình hình an ninh chính trị tại địa phương, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân. Việc mua bán, tàng trữ sử dụng ma túy còn là mầm mống làm phát sinh một số loại tội phạm khác, gây ảnh hưởng nặng nề cho sức khỏe của con người và kinh tế của gia đình người sử dụng. Bị cáo Nghiêm Thị Ph đã bị Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương xét xử 09 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy; Bị cáo Nguyễn Văn Đ nhiều lần bị Tòa án xét xử và bị xử phạt vi phạm hành chính, có nhân thân rất xấu. Mặc dù các bị cáo đã bị Tòa án xét xử nhưng không lấy đó là bài học cho bản thân để tu dưỡng rèn luyện trở thành công dân tốt, sống có ích cho xã hội mà lại tiếp tục phạm tội. Do vậy cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc, cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng:

Bị cáo Nghiêm Thị Ph không phải chịu tình tiết tăng nặng.

Bị cáo Nguyễn Văn Đ có 01 tiền án “Bản án số 17/2005/HSST ngày 21/9/2005 của Tòa án nhân dân huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương xử phạt 27 tháng tù về tội Đánh bạc, thời gian tính từ ngày bắt tạm giam 11/5/2005. Phạt 3.000.000đồng. Án phí 50.000đ”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 11/5/2007, tiền phạt và án phí đến nay bị cáo chưa thi hành nên chưa được xóa án tích, do vậy lần phạm tội này bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng “tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo Nghiêm Thị Ph và Nguyễn Văn Đ đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Về hình phạt bổ sung: Quá trình điều tra xác định bị cáo Nghiêm Thị Ph và chồng là ông Tr có tài sản là nhà đất tại thửa đất số 287, tờ bản đồ số 64, diện tích 43,4 m2 tại Khu 16, phường N, thành phố Hải Dương. Tuy nhiên Hội đồng xét xử xét thấy do bị cáo Ph hiện nay đã già yếu, làm nghề lao động tự do, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Đối với bị cáo Nguyễn Văn Đ làm nghề lao động tự do, thu nhập không ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Đ.

[7] Về vật chứng: Đối với 0,101g Heroine, hoàn lại sau giám định đựng trong phong bì niêm phong số 195/KLGĐ - PC 09 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương là vật cấm lưu hành nên cần tịch thu cho tiêu hủy theo điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Quá trình điều tra cơ quan điều tra đã thu giữ của Nguyễn Văn Đ 01 xe mô tô kiểu dáng Wave S, màu đen, đeo biển kiểm soát 34B2 - 293.81, số khung RLHHC 12088Y002623, số máy HC 12E – 0006822, quá trình điều tra Đ khai mua của một người đàn ông không rõ tên tuổi, địa chỉ, không biết đây là tài sản do phạm tội mà có. Theo phiếu trả lời xác minh phương tiện giao thông đường bộ ngày 18/5/2020 của Phòng Cảnh sát giao thông – Công an tỉnh Hải Dương, xe Wave đen xám, số máy HC12E0006822, số khung 12088Y002623, biển số 34N2 - 0330, chủ xe Nguyễn Văn M, Địa chỉ: xã N, huyện T, tỉnh Hải Dương. Cuối năm 2019, anh M bị kẻ gian chiếm đoạt chiếc xe trên, nhưng anh M không trình báo Cơ quan Công an. Ngày 15/6/2020, anh M trình báo việc bị mất xe tại Công an thành phố Hải Dương, Cơ quan CSĐT - Công an thành phố Hải Dương đã tách chiếc xe trên để phục vụ điều tra , xử lý theo quy định của pháp luật là phù hợp.

Đối với biển kiểm soát 34B2-293.81, ngày 13/5/2020 Phòng CSGT Công an tỉnh Hải Dương đã có phiếu trả lời xác minh phương tiện giao thông đường bộ, biển số 34B2-293.81 chủ xe là Trần Văn L ở địa chỉ: xã Quyết Thắng, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương (nay là xã Quyết Thắng, thành phố Hải Dương). Năm 2014 anh L đã bán chiếc xe trên cho một người đàn ông không quen biết. Biển số xe trên không có trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng. Xét thấy biển số xe trên không sử dụng được nên cần tịch thu và tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[8] Không làm rõ được người bán trái phép ma túy cho Nghiêm Thị Ph nên không có căn cứ xử lý.

[9] Về án phí: Bị cáo Nghiêm Thị P là người cao tuổi nên được miễn án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo Nguyễn Văn Đ phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

n cứ vào khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Nghiêm Thị Phúc; Điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Nguyễn Văn Đạo. Điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm a, c khoản 2 Điều 106, Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí, lệ phí; Nghị quyết số 326/QH 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: Bị cáo Nghiêm Thị Ph phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.

Bị cáo Nguyễn Văn Đ phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Xử phạt: Bị cáo Nghiêm Thị Ph 27 (Hai mươi bảy) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 21/4/2020.

Bị cáo Nguyễn Văn Đ 15 (Mươi lăm) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 21/4/2020.

3. Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 0,101g heroine hoàn lại sau giám định được đựng trong phong bì niêm phong số 195/ KLGĐ - PC 09 Công an tỉnh Hải Dương và 01 biển kiểm soát 34 B2 – 293.81 .

ặc điểm, tình trạng vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Hải Dương và và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Dương ngày 17/7/2020).

4. Về án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Nghiêm Thị Ph. Bị cáo Nguyễn Văn Đ phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. /.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

132
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 100/2020/HS-ST ngày 07/08/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:100/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hải Dương - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về