TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 100/2020/HS-PT NGÀY 21/09/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 21 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 124/2020/TLPT-HS ngày 24 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo Vũ Đình C, do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án sơ thẩm số 33/2020/HS-ST ngày 17/07/2020 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Hải Dương.
- Bị cáo có kháng cáo: Vũ Đình C, sinh năm 1999 tại xã V, huyện B, tỉnh Hải Dương; nơi cư tru : Thôn T, xã V, huyện B, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Đình N và bà Vũ Thị M; tiền án:không; tiền sự: Ngày 24/10/2019 bị UBND xã V, huyện B xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền về hành vi đánh nhau; C chưa chấp hành quyết định; Bị cáo bị bắt tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương từ ngày 25/3/2020 đến nay, có mặt tại phiên tòa.
Ngoài ra còn bị cáo Vũ Đình D không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị, vắng mặt tại phiên tòa.
- Bị hại:
1. Anh Vũ Xuân T, sinh năm 1990;
2. Anh Vũ Đình K, sinh năm 1990;
Đều có nơi cư trú: Thôn T, xã V, huyện B, tỉnh Hải Dương (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Tối ngày 28/10/2019, Vũ Đình D và Vũ Đình C đến chơi và ăn cơm tối tại nhà Vũ Đình G. Sau khi ăn xong, đến khoảng 21 giờ cùng ngày, mọi người rủ nhau về nhà D uống nước. C điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Exciter BKS 34B3- 573.14 của mình chở G, khi đi đến đầu thôn T, C dựng quay ngang xe ở giữa đường để vào quán mua thuốc lá. Lúc này anh Phạm Văn A, sinh năm 1985 điều khiển xe mô tô BKS 34B3-656.11 chở vợ là chị Phạm Thị H, sinh năm 1985 cùng ở thôn M, xã V đi đến, thấy C chặn xe ngang đường nên anh A bấm còi, đồng thời tránh xe của C. Thấy vậy C chửi anh A rồi C và G đi xe máy đuổi theo đến gần thôn L, xã V thì đuổi kịp. C ép xe yêu cầu anh A dừng lại, G yêu cầu vợ chồng anh A quay lại cổng làng thôn T. Tại đây C và G chửi và yêu cầu vợ chồng anh A xin lỗi. Cùng lúc đó anh Vũ Xuân T điều khiển xe mô tô đi đến và can ngăn nhưng C và G không nghe, đồng thời G gọi điện cho D đi ra cổng làng nhưng không nói nội dung để làm gì. Khi D ra đến nơi đã can ngăn C và G để vợ chồng anh A đi. Khi vợ chồng anh A rời đi, D và anh T đã lời qua tiếng lại, anh T nói với D "Chúng mày thích đánh người thế à", đồng thời gọi điện thoại cho anh Vũ Đình Đ là anh trai G ra đưa G và C về. D cho rằng anh T gọi người đến đánh mình liền chửi anh T, đồng thời D, C lao vào dùng tay, chân đấm, đá anh T nhưng không gây thương tích gì, anh T bỏ chạy, C đuổi theo nhưng không đuổi được. Sau đó, C, G đi về nhà D ngồi chơi. Một lúc sau C điều khiển xe mô tô BKS 34B3-573.14 chở G về nhà. Khi đến khu vực ngã tư thôn T thấy anh T, anh Đ, anh Vũ Đình K đang đứng nói chuyện thì C và G xuống xe chửi bới. Thấy C và G có vẻ đang say rượu nên anh Đ tát và đuổi G về nhà, G không về nhưng không có lời nói, cử chỉ, hành động gì. C đi về đón D quay lại ngã tư mục đích để đánh anh T. Khi đến nơi, D nhặt 01 viên gạch ở rìa đường để đánh anh T thì được anh K can ngăn làmviên gạch rơi vỡ, D nhặt khoảng 1/2 viên gạch vừa vỡ ra lao đến đập vào đỉnh đầu làm anh T bị thương. Ngay lúc đó anh T xông vào quật làm D bị ngã xuống đường, anh T dùng tay đấm vào mặt D 01 đến 02 phát. Thấy D bị đánh, C lao đến đạp vào người anh T, anh T bỏ chạy về hướng chùa thôn T, C và D đuổi theo. Trên đường đuổi anh T, D và C nhìn thấy G đang cầm một thanh tuýp sắt hình hộp vuông dài 98cm, cạnh 2,5cm đang chạy phía sau anh T. D và C bảo G đưa tuýp sắt để đuổi đánh anh T nhưng G không đưa, sau đó C giằng được tuýp sắt từ tay G và chạy đuổi theo anh T, khi cách anh T khoảng 5 đến 7 mét, C ném tuýp sắt về phía anh T nhưng không trúng, anh T chạy thoát, D tay cầm tuýp sắt, C điều khiển xe mô tô chở D tiếp tục tìm đánh anh T. Khi đến gần cổng chùa thôn T, thấy anh K đang đi bộ, D bảo C đuổi theo đánh anh K. Thấy vậy anh K bỏ chạy, khi đến gần sân bóng, D và C đuổi kịp dùng tay chân đánh, thay nhau dùng tuýp sắt vụt nhiều phát vào người làm anh K bị thương.
Sau khi đánh anh K, C và D tiếp tục quay lại ngã tư thôn T để tìm anh T đánh nhưng không gặp. Một lúc sau anh K đi bộ đến cổng nhà ông Vũ Đình N ở gần ngã tư thôn T để lấy xe mô tônhãn hiệu Yamaha Nouvo BKS 34B2-728.13 của mình dựng tại đó để đi về thì bị D dùng tuýp sắt vụt vào yếm và đuôi xe của anh K rồi tiếp tục cùng C dùng tay, chân đánh, dùng tuýp sắt vụt nhiều phát vào người anh K. Sau đó D, C đến nhà ông Vũ Xuân X (là bố đẻ anh T) ở cùng thôn tìm đánh anh T. Do không gặp được anh T nên D và C chửi bới, D dùng tuýp sắt vụt vỡ 5 bóng đèn trang trí ở hàng rào nhà ông X rồi cùng C đi về. Anh K và anh T được mọi người đưa đến cấp cứu và điều trị tại Bệnh viện đa khoa huyện B, đến ngày 04/11/2019 anh T và anh K ra viện.
Kết luận giám định pháp y về thương tích số 275a ngày 24/12/2019 của Phòng giám định pháp y Bệnh viện đa khoa tỉnh Hải Dương kết luận: Anh Vũ Xuân T bị tổn hại 02% sức khỏe.
Kết luận giám định pháp y về thương tích số 275b ngày 24/12/2019 của Phòng giám định pháp y Bệnh viện đa khoa tỉnh Hải Dương kết luận: Anh Vũ Đình K bị tổn hại 03% sức khỏe.
Kết luận định giá số 02 ngày 03/02/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND huyện B kết luận: Xe mô tô của anh K bị hư hỏng, tổng thiệt hại là 799.500 đồng; 05 bóng đèn của gia đình ông X bị thiệt hại, tổng trị giá là 1.000.000 đồng.
Ngày 04/3/2020, anh T và anh K có đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự.
Tại bản án sơ thẩm số 33/2020/HS-ST ngày 17 tháng 7 năm 2020, Tòa án nhân dân huyện B căn cứ điểm a, i khoản 1 Điều 134, điểm h, s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 58, Điều 38, khoản 1 Điều 46, điểm a khoản 1 Điều 47, Điều 48 BLHS; khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 BLTTHS; khoản 1 Điều 584, khoản 1 Điều 585, Điều 587, Điều 588, Điều 589, Điều 590, Điều 357 BLDS; Điều 246 BLTTDS; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016: Xử phạt Vũ Đình C 15 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giam 25/3/2020.
Ngoài ra cấp sơ thẩm còn quyết định về tội danh, hình phạt đối với bị cáo Vũ Đình D; trách nhiệm dân sự; xử lý vật chứng; án phí và quyền kháng cáo.
Ngày 23/7/2020, bị cáo C kháng cáo đề nghị giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay:
- Bị cáo C có mặt, giữ nguyên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
- Đại diện VKSND tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm về giải quyết vụ án: Sau khi phân tích các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, xác định cấp sơ xét xử bị cáo Vũ Đình C về tội Cố ý gây thương tích theo điểm a, i khoản 1 Điều 134 BLHS là đúng pháp luật. Xét kháng cáo của bị cáo thì thấy: Cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ tại điểm h, s khoản 1 Điều 51, áp dụng tình tiết tăng nặng tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS, xử phạt bị cáo Vũ Đình C 15 tháng tù là phù hợp. Sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo đã nhờ gia đình bồi thường cho bị hại nhưng bị hại không nhận, bị cáo đã nộp trước án phí sơ thẩm. Xem xét bị cáo có ý thức bồi thường và nộp tiền theo quyết định của bản án sơ thẩm là tình tiết giảm nhẹ mới theo khoản 2 Điều 51 BLHS. Bị cáo tham gia gây thương tích cho anh K 3%, cho anh T 2% sức khỏe, vì bị cáo dùng hung khí nguy hiểm, có tính chất côn đồ và bị hại yêu cầu khởi tố nên bị cáo mới phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự. Xét bị cáo tuổi đời con trẻ, có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên đề nghị HĐXX chấp nhận kháng cáo, giảm nhẹ hình phạt, xử phạt bị cáo từ 9 – 12 tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giam 25/3/2020. Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Về tố tụng: Kháng cáo của bị cáo C trong thời hạn quy định tại Điều 333 Bộ luật tố tụng Hình sự nên hợp lệ và được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
Về nội dung:
[1] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cấp sơ thẩm, trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của bị cáo khác cùng những chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Vậy đã có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 21 giờ ngày 28/10/2019, tại thôn T, xã V, huyện B, tỉnh Hải Dương, Vũ Đình D và Vũ Đình C có hành vi dùng chân tay, gạch, tuýp sắt (là hung khí nguy hiểm) đánh, đập, vụt vào đầu anh Vũ Xuân T, vào người anh Vũ Đình K. Hậu quả làm anh T bị tổn hại 02% sức khỏe, anh K bị tổn hại 03% sức khỏe. Anh T và anh K có đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự. Do đó Tòa án nhân dân huyện B xét xử bị cáo C về tội Cố ý gây thương tích theo điểm a, i khoản 1 Điều 134 BLHS là có căn cứ, đúng pháp luật.
[2] Xét kháng cáo của bị cáo thì thấy:
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, chỉ vì duyên cớ nhỏ nhặt mà bị cáo dùng hùng khí nguy hiểm trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe người khác. Bị cáo có nhân thân xấu về hành vi đánh nhau nay lại tiếp tục có hành vi cố ý gây thương tích, thể hiện ý thức coi thường pháp luật, sẵn sàng sử dụng vũ lực nên cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo bị cáo thành công dân tốt.
Hành vi gây thương tích cho anh T và hành vi gây thương tích cho anh K của bị cáo cấu thành tội phạm độc lập nhưng được xét xử trong cùng vụ án nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng "phạm tội 02 lần trở lên" quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS. Bị cáo thành khẩn khai báo, phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 BLHS. Cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và xử phạt bị cáo 15 tháng tù. Sau khi xét xử bị cáo đã tác động gia đình bồi thường cho bị hại và người bị hại cho bị cáo, thể hiện thái độ ăn năn, hối cải của bị cáo. Bị cáo đã nộp trước tiền án phí hình sự và dân sự sơ thẩm nên xem xét cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 BLHS. Thấy rằng tại cấp phúc thẩm bị cáo có tình tiết giảm nhẹ mới, đã nhận thức được hành vi của mình là sai trái nên có căn cứ giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.
[3]Về án phí: Do chấp nhận kháng cáo, sửa bản án sơ thẩm nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị Hội đồng xét xử không xem xét.
Vì lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Vũ Đình C; sửa bản án sơ thẩm số 33/2020/HS-ST ngày 17 tháng 7 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Hải Dương về phần hình phạt và điều luật áp dụng đối với bị cáo Vũ Đình C.
Căn cứ điểm a, i khoản 1 Điều 134; điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58; Điều 38; khoản 1 Điều 46; điểm a khoản 1 Điều 47; Điều 48 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Vũ Đình C 11 (Mười một) tháng tù về tội Cố ý gây thương tích, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 25/3/2020.
3. Về án phí: Bị cáo Vũ Đình C không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án 21/9/2020.
Bản án 100/2020/HS-PT ngày 21/09/2020 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 100/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hải Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về