TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 100/2020/HNGĐ-ST NGÀY 08/06/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 08 tháng 6 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 185/2020/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 02 năm 2020 về việc :Tranh chấp ly hôn và nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:131/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 21 tháng 5 năm 2020 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thùy L, sinh năm 1996 Địa chỉ: Ấp Rừng S, xã Mỹ Hạnh B, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.
2. Bị đơn: Anh Trần Thanh T, sinh năm 1988 Địa chỉ: Ấp Hậu H, xã Đức Hòa T, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. (Các đương sự có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ly hôn ngày 21 tháng 2 năm 2020 và những lời khai tiếp theo cũng như tại phiên tòa, chị Nguyễn Thùy L trình bày: Chị và anh Trần Thanh T có tìm hiểu nhau thời gian 05 tháng, sau đó chung sống với nhau vào năm 2015 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đức Hòa T, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc đến tháng 5 năm 2018 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do cuộc sống không phù hợp, bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cải vã nhau nên chị và anh T ly thân nhau từ tháng 6 năm 2019 cho đến nay. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị xin ly hôn với anh Trần Thanh T.
Về con chung: Chị và anh T chung sống có 01 con chung tên Trần Thanh S sinh ngày 09 tháng 10 năm 2016 hiện nay anh T đang nuôi dưỡng, khi ly hôn chị xin được nuôi con, không yêu cầu anh T cấp dưỡng.
Về tài sản chung: Không có Về nợ chung: Không có.
Tại lời trình bày của bị đơn anh Trần Thanh T: Anh T xác nhận về điều kiện kết hôn, thời gian chung sống, con chung, tài sản chung và nợ chung là đúng theo lời trình bày của chị Nguyễn Thùy L, anh T cho rằng cuộc sống vợ chồng không có phát sinh mâu thuẫn gì trầm trọng mà chỉ có cải vả nhau những chuyện nhỏ trong gia đình mà không thể hàn gắn được nên anh và chị L ly thân nhau từ tháng 11 năm 2019 cho đến nay.
Nay chị L xin ly hôn, anh không đồng ý mà tha thiết xin đoàn tụ. Nếu Tòa án có căn cứ cho ly hôn, anh xin được nuôi con, anh yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng cho đến khi con tròn 18 tuổi.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Tòa, căn cứ các kết quả xét hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng: Chị Nguyễn Thùy L khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh Trần Thanh T, anh T có địa chỉ thường trú tại ấp Hậu H, xã Đức Hòa T, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An được Công an xã Đức Hòa T xác nhận và có mặt tại địa phương nên Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thùy L và anh Trần Thanh T có tìm hiểu nhau thời gian 05 tháng, sau đó sau đó chung sống với nhau vào năm 2015 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đức Hòa T, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An, nên hôn nhân giữa chị L và anh T là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[3]. Trong quá trình chung sống, chị L cho rằng do cuộc sống không phù hợp, bất đồng quan điểm sống nên chị và anh T đã ly thân từ tháng 6 năm 2019 đến nay. Mâu thuẫn giữa chị và anh T cũng không được gia đình hai bên và chính quyền địa phương giải quyết. Đối với anh Trần Thanh T, từ khi anh và chị L ly thân cho đến nay, anh T không đưa ra được hướng đoàn tụ với chị L. Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy rằng đời sống chung vợ chồng của chị L và Tâm không thể tiếp tục, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, xét yêu cầu ly hôn của chị L đối với anh T là có căn cứ, phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[4]. Về con chung: Chị L và anh T chung sống có 01 đứa con tên Trần Thanh S sinh ngày 09 tháng 10 năm 2016 anh T đang nuôi, khi ly hôn chị L xin được nuôi con. Đối với anh T cũng xin được nuôi con. Qua xét hỏi tại phiên tòa chị L đồng ý giao con cho anh T tiếp tục nuôi dưỡng Hội đồng xét xử thấy rằng sự thỏa thuận về việc nuôi con giữa chị L và anh T là phù hợp với Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình, nên Hội đồng xét xử ghi nhận.
Tại phiên tòa hôm nay anh T yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000đ cho đến khi con tròn 18 tuổi, việc này được chị L tự nguyện đồng ý, nên Hội đồng xét xử ghi nhận.
[5]. Về tài sản chung: Chị L và anh T thống nhất khai không có tài sản chung, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[6]. Về nợ chung: Chị L và anh T thống nhất khai không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[7]. Về án phí: Chị Nguyễn Thùy L phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự:
Căn cứ vào các Điều 9 và Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Điều 84 và Điều 110 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014:
Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thùy L đối với anh Trần Thanh T về việc “Ly hôn”.
Chị Nguyễn Thùy L được ly hôn với anh Trần Thanh T.
2. Về con chung: Anh T được tiếp tục nuôi 01 con chung tên Trần Thanh S, sinh ngày 09 tháng 10 năm 2016(anh T đang nuôi). Chị L có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000đ cho đến khi con tròn 18 tuổi, thời gian cấp dưỡng nuôi con được tính từ tháng 6 năm 2020.
Bên không nuôi con được quyền tới lui, thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản. Cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung. Khi cần thiết các bên có thể thay đổi việc nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.
3. Về án phí: Chị Nguyễn Thùy L phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm và 300.000 đồng áp phí cấp dưỡng nuôi con sung công quỹ Nhà nước nhưng được khấu trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0004761 ngày 21/02/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hòa sang án phí để thi hành. Như vậy chị L phải nộp tiếp 300.000đ.
Án xử sơ thẩm và tuyên án công khai, các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 100/2020/HNGĐ-ST ngày 08/06/2020 về tranh chấp ly hôn
Số hiệu: | 100/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 08/06/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về