Bản án 100/2019/HS-ST ngày 16/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐỒNG XOÀI, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 100/2019/HS-ST NGÀY 16/09/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 9 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Xoài mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 110/2019/TLST-HS ngày 02 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 115/2019/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Đức L, sinh năm 1991 tại Thanh Hóa; nơi cư trú xóm 12, xã X, huyện T, tỉnh Thanh Hóa; chổ ở hiện nay khu phố 4, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn) 01/12; dân tộc: Kinh, giới tính: Nam, tôn giáo: Không, Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Nguyễn Đức T, sinh năm 1965 và bà Lê Thị T, sinh năm 1966, bị cáo chưa có vợ, con;

Tiền án 03:

Ngày 18/12/2015, bị Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 09 (chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Tại Bản án số 35/2015/HSST ngày 18/12/2015) Ngày 27/12/2016, bị Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 01 (một) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Tại Bản án số 24/2016/HSST ngày 27/12/2016) Ngày 28/12/2017, bị Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 01 (một) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Tại Bản án số 31/2017/HSST ngày 28/12/2017) Về nhân thân:

Ngày 24/01/2005, bị Ủy ban nhân dân huyện T, tỉnh Thanh Hóa ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào trường giáo dưỡng số 60/QĐ-CT với thời hạn 24 (hai mươi bốn) tháng.

Ngày 19/11/2009, bị Tòa án nhân dân quận H, thành phố Hà Nội xử phạt 01 (một) năm tù về tội “Cướp giật tài sản” (Tại Bản án số 62/2009/HSST ngày 19/11/2009);

Ngày 05/11/2014, bị Công an huyện T, tỉnh Thanh Hóa xử phạt hành chính về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; tiền sự: Không;

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 09/3/2019 cho đến nay “có mặt”.

Ni bị hại: Chị Lô Thị T, sinh năm 1974; nơi cư trú ấp 02A, xã B, huyện B, tỉnh Bình Phước “có mặt”.

Ni làm chứng:

Chị Trịnh Đình Q (tên gọi khác: P), sinh năm 1996; nơi cư trú khu phố X, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước “vắng mặt”.

Anh Lê Thanh T, sinh năm 1975; nơi cư trú khu phố X, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước “vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 03 giờ 00 phút ngày 09/3/2019, Nguyễn Đức L đi bộ đến Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Phước, thuộc phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước. Khi L đi đến phòng C2 hậu phẫu, khoa sản của Bệnh viện thì thấy cửa phòng mở, những người trong phòng đã ngủ nên L đi vào trong phòng thì nhìn thấy trên đầu giường đầu tiên bên tay trái nhìn hướng từ ngoài cửa vào có 01 điện thoại di động Oppo F1S màu trắng hồng, có ốp lưng bên ngoài bằng nhựa màu đen, ốp lưng bên trong bằng nhựa màu trắng của chị Lô Thị T đang cắm sạc pin nên L rút dây cắm sạc lấy điện thoại trên bỏ vào túi quần jean bên phải rồi đi bộ về phòng trọ tại khu phố 4, phường T, thành phố Đ.

Đến khoảng 09 giờ 30 phút cùng ngày, L tháo ốp lưng điện thoại bỏ lên khung cửa sổ gần cửa ra vào của phòng trọ rồi mang điện thoại trên đến cửa hàng điện thoại T Phụng do chị Trịnh Đình Q làm chủ để bán. Khi nhận điện thoại thì chị Q kiểm tra thấy có mật khẩu màn hình nên yêu cầu L mở mật khẩu nhưng L nói không biết mật khẩu nên chị Q không mua điện thoại trên. Cùng lúc này Công an thành phố Đ kiểm tra hành chính đối với Nguyễn Đức L phát hiện trên người L có chiếc điện thoại Oppo F1S mà L đã lấy trộm của chị T.

Tại bản kết luận định giá số 32/KLĐG ngày 12/3/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Đ định giá 01 điện thoại di động Oppo F1S, màu trắng hồng, đời máy 2017, ram 3GB, rom 32GB, đã qua sử dụng, còn hoạt động bình thường, trị giá 2.400.000 đồng.

Quá trình kiểm tra hành chính Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ đã thu giữ số tiền 200.000 đồng; 01 điện thoại Oppo F1S màu trắng hồng; 02 chìa khóa; 01 ốp lưng điện thoại màu đen; 01 ốp lưng điện thoại màu trắng; 01 đoạn ống hút màu xanh dài 1,5cm một đầu hàn kín; 01 sim điện thoại có ghi chữ 4G Viettel và các dãy số 89840, 48000, 1925, 5497; 01 sim điện thoại có ghi chữ V live; 01 sim điện thoại có ghi chữ Viettel Daily Info; 01 sim điện thoại có ghi chữ Vinaphone; 01 sim điện thoại có ghi chữ 64KUSIN có dãy số 8986, 0116, 9453, 1036 và 03 khe đựng sim điện thoại.

Ngày 23/3/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ đã xử lý vật chứng trả lại cho chị Lô Thị T 01 điện thoại Oppo F1S màu trắng hồng, 01 ốp lưng điện thoại bằng nhựa màu đen, 01 ốp lưng điện thoại bằng nhựa màu trắng.

Tại Bản cáo trạng số 106/CT-VKS ngày 31/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ truy tố bị cáo Nguyễn Đức L về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Đức L mức án từ 30 đến 36 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng.

Về trách nhiệm dân sự: Do người bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì thêm nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Về vật chứng vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử trả lại cho bị cáo L số tiền 200.000 đồng; tịch thu tiêu hủy số vật chứng thu giữ trong vụ án hiện không còn giá trị sử dụng.

Bị cáo L tại phiên tòa đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như Cáo trạng và lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo không tranh luận mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra; Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ, Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến và khiếu nại gì. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng số 106/CT-VKS ngày 31/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ, tỉnh Bình Phước.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo là phù hợp với lời khai của người bị hại; người người chứng kiến, biên bản kiểm tra hành chính, biên bản thu giữ đồ vật, tài liệu, kết luận điều tra, kết luận định giá tài sản, cùng các chứng cứ tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Thấy, phù hợp với nhau về thời gian, địa điểm và phương thức thực hiện hành vi phạm tội. Do vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Lợi dụng việc chị Lô Thị T chăm sóc con gái tại phòng C2, khoa sản Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Phước, thuộc phường T, Thành phố Đ sơ hở không để phòng nên khoảng 03 giờ ngày 09/3/2019 Nguyễn Đức L đã lén lút lấy trộm chiếc điện thoại di động hiệu Oppo F1S màu trắng hồng của chị T cất giấu để bán lấy tiền tiêu xài.

[3] Tại Bản Kết luận định giá số 32/KLĐG ngày 12/3/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Đ định giá 01 điện thoại di động Oppo F1S, màu trắng hồng, đời máy 2017, ram 3GB, rom 32GB, đã qua sử dụng, còn hoạt động bình thường, trị giá 2.400.000 đồng Căn cứ vào hành vi bị cáo đã thực hiện và giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Do bị cáo đã có 03 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội nên Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ truy tố bị cáo về tội trộm cắp tài sản với tình tiết định khung hình phạt là “tái phạm nguy hiểm” theo điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4] Bị cáo là người đã thành niên, hoàn toàn nhận thức được việc L dụng sự sơ hở của chủ sở hữu trong việc quản lý tài sản để lén lút chiếm đoạt tài sản là hành vi phạm tội nhưng vì mục đích tiêu xài cá nhân mà bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người bị hại, là khách thể được pháp luật bảo vệ. Bản thân bị cáo đã có 03 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” và đã nhiều lần bị xử phạt nhưng bị cáo không biết lấy đó làm bài học tu dưỡng bản thân lại tiếp tục phạm tội, vì vậy cần phải có mức án nghiêm, tương xứng với tính chất và mức độ hành vi phạm tội của bị cáo gây ra mới đảm bảo tính răn đe, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung.

[5] Tuy nhiên xét thấy trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; tài sản bị cáo chiếm đoạt có giá trị không lớn, đã được thu hồi trả cho người bị hại nên chưa gây ra thiệt hại. Đây là các tình tiết giảm nhẹ hình phạt được quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, cần xem xét trong việc lượng hình phạt đối với bị cáo.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Do người bị hại chị Lô Thị T đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Về vật chứng của vụ án: Đối với số tiền 200.000 đồng thu giữ của bị cáo, đây là tài sản cá nhân của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội. Tuy nhiên tại phiên tòa bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử sung công quỹ Nhà nước số tiền trên, xét yêu cầu của bị cáo là tự nguyện, không trái với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

Đối với số vật chứng thu giữ trong vụ án gồm: 02 chìa khóa; 01 đoạn ống hút màu xanh dài 1,5cm một đầu hàn kín; 01 sim điện thoại có chữ 4G Viettel; 01 sim điện thoại có chữ Vlive; 01 sim điện thoại có chữ Viettel Daily Info; 01 sim điện thoại có chữ Vinaphone; 01 sim điện thoại ghi chữ 64KUSIN và 03 khe đựng sim điện thoại, hiện không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[9] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ tại phiên tòa là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[10] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt:

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật hình sự 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức L 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 09/3/2019.

3. Về trách nhiệm dân sư:

Do các bên không ai có yêu cầu bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về vật chứng vụ án:

Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 02 chìa khóa; 01 đoạn ống hút màu xanh dài 1,5cm một đầu hàn kín; 01 sim điện thoại có chữ 4G Viettel; 01 sim điện thoại có chữ Vlive; 01 sim điện thoại có chữ Viettel Daily Info; 01 sim điện thoại có chữ Vinaphone; 01 sim điện thoại ghi chữ 64KUSIN và 03 khe đựng sim điện thoại.

Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 200.000 đồng (Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 0001703, quyển số 0035, ký hiệu D47/2017 ngày 01/8/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố Đ).

5. Về án phí sơ thẩm:

Áp dụng Điều 99 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo L phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

6. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo, người bị hại có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 100/2019/HS-ST ngày 16/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:100/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Xoài - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về