Bản án 100/2019/HS-ST ngày 05/06/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU

BẢN ÁN 100/2019/HS-ST NGÀY 05/06/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05 tháng 6 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 81/2019/TLST-HS ngày 02 tháng 5 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 111/2019/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 5 năm 2019, đối với:

Bị cáo Lê Phước T, sinh năm 1987, tại Bà Rịa-Vũng Tàu. HKTT: 368/8B đường L, Phường 7, TP. V, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu; Chỗ ở: Phòng 04 nhà trọ số 115/43 đường L, phường N, TP. V; Nghề nghiệp: không; Trình độ văn hóa: 5/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: Phật; Quốc tịch: Việt Nam; Cha: Trương Ngọc H (đã chết) và mẹ: Lê Thị Lan H; Vợ: Phạm Thị Thanh H (đã ly thân) và có 02 người con lớn nhất sinh năm 2009, nhỏ nhất sinh năm 2011; Tiền án: Bản án số 50/2015/HSST ngày 23/4/2015 của TAND TP. V xử phạt bị cáo 04 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 01/10/2017; tiền sự: không; Bị bắt ngày 07 tháng 12 năm 2018. (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Phước T là đối tượng nghiện và mua bán ma túy, T thường ma túy của những người không rõ lai lịch ở khu vực Xóm L, phường N, TP. V về sử dụng và bán cho người nghiện. Khoảng 12 giờ 40 phút ngày 07/12/2018, Nguyễn Thanh T (không rõ lai lịch), gọi đến điện thoại di động số 0792975371 gặp Lê Phước T, hỏi mua 02 gói ma túy tổng hợp (hàng đá) với giá 300.000đ/1 gói. T đồng ý bán và hỏi Tùng đang ở đâu, Tùng nói đang ở Nhà nghỉ R số B23 đường T, phường N, TP. V. Sau đó, T điều khiển xe mô tô biển số 72K1-7133 đi mua 02 gói ma túy với giá 200.000đ/1 gói của một phụ nữ tên L không rõ lai lịch, rồi đến điểm hẹn bán cho T. Khoảng 12 giờ 50 phút cùng ngày, tại điểm hẹn T nói chỉ có 300.000đ nên mua 1 gói và khi cả hai đang thực hiện việc mua bán ma túy thì bị bắt quả tang cùng tang vật.

Vật chứng vụ án gồm: thu giữ của T 02 gói nylon, hàn kín bên trong chứa chất tinh thể (T khai là ma túy tổng hợp chuẩn bị bán 01 gói cho T với giá 300.000đ), 01 điện thoại hiệu Mobiistar, kèm sim số 0792975371 và 01 xe mô tô biển số 72K1-7133, có số khung: VTLBCH014PL4001680, số máy VLF1P52FMH-3*40097680; thu trên tay của Nguyễn Thanh T 300.000đ là tiền T chuẩn bị đưa cho T để mua ma túy.

Quá trình điều tra, bị cáo T và T khai nhận: cách ngày bị bắt khoảng 01 tháng, BC T đã bán cho T 01 gói ma túy với giá 200.000đ tại trước Nhà nghỉ A gần vòng xoay Dầu khí phường N, TP. V.

Tại Bản kết luận giám định số 354/GĐMT-PC09(Đ4) ngày 24/12/2018 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu kết luận:

Mẫu chất kết tinh không màu - trong suốt chứa trong 02 (một) gói nylon hàn kín, được niêm phong trong một phong bì màu trắng, có hình dấu của Ban Chỉ huy BPCKC Bà Rịa- Vũng Tàu, Bộ chỉ huy BĐBP tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, cùng các chữ ký ghi họ tên: Đại tá Phùng Văn H, Vũ Văn H, Nguyễn Thanh L, Lê Phước T, Nguyễn Thanh T, Lương Văn H, gửi đến giám định có khối lượng 0,1797 gam, là chất ma túy, loại Methamphetamine.

Đối với Nguyễn Thanh T đã bỏ trốn và người phụ nữ tên L (không rõ lai lịch) đã bán ma túy cho T, cơ quan điều tra tiếp tục xác minh xử lý sau.

Đối với chiếc xe mô tô biển số 72K1-7133, số khung: VTLBCH 014PL4001680, số máy VLF1P52FMH-3*40097680, T khai mua của một người phụ nữ, không rõ lai lịch, để sử dụng (việc mua bán sang tay, hiện nay T đã mất giấy đăng ký xe). Hiện Chi cục Thi hành án dân sự TP. V quản lý chờ xử lý.

Bản cáo trạng số 92/CT-VKSTPVT ngày 23/4/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố V truy tố Lê Phước T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, không tranh luận và xin giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố V đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bị cáo Lê Phước T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm r, s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo từ 07 năm đến 08 năm tù; Về vật chứng đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy chất ma túy thu giữ trong vụ án; tịch thu nộp ngân sách nhà nước 300.000đ, 01 điện thoại di động Mobiistar và 01 xe mô tô biển số 72K1-7133.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, không có người nào khác có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với Biên bản phạm tội quả tang, Kết luận giám định, lời khai của người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, nên có cơ sở xác định: Vào khoảng 12 giờ 50 phút ngày 07/12/2018, tại trước Nhà nghỉ R số B23 đường T, phường N, TP. V, Lê Phước T đang chuẩn bị bán 01 gói ma túy có khối lượng 0,1797 gam, loại Methamphetamine cho Nguyễn Thanh T với giá 300.000đ, thì bị bắt quả tang. Ngoài ra, bị cáo T và T còn khai nhận, cách ngày bị bắt khoảng 01 tháng, T đã bán cho T 01 gói ma túy với giá 200.000đ tại trước Nhà nghỉ A gần vòng xoay Dầu khí phường N, TP. V. Do đó, có đủ căn cứ kết luận hành vi của Lê Phước T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” với tình tiết định khung phạm tội hai lần trở lên quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

[3] Xét thấy, hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến qui định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây mất trật tự, an toàn xã hội tại địa phương mà còn trực tiếp tiếp tay cho các đối tượng mua bán trái phép chất ma túy khác. Bản thân bị cáo có nhân thân rất xấu, năm 2015 bị TAND TP. V xử phạt 04 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích, bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà lại tiếp tục phạm tội, cho thấy xem thường pháp luật nên cần phải xử phạt thật nghiêm mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Tuy nhiên quá trình điều tra tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự khai ra hành vi phạm tội trước đó nên căn cứ điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5] Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát đối với bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng và mức hình phạt phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[6] Xử lý vật chứng:

- Chất ma túy thu giữ trong vụ án là chất cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy;

- Số tiền 300.000đ thu của Nguyễn Thanh T dùng để mua ma túy nên tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

- 01 điện thoại di động hiệu Mobiistar và 01 xe mô tô biển số 72K1-7133, số khung: VTLBCH 014PL4001680, số máy VLF1P52FMH-3*40097680, không xác định được chủ sở hữu và bị cáo sử dụng vào việc phạm tội và không có ý kiến yêu cầu gì nên tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

[7] Án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo qui định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Lê Phước T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm r, s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự:

Xử phạt: Lê Phước T 08 (Tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt 07/12/2018.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy chất ma túy trong 01 gói niêm phong số 354/GĐ- PC09(Đ4) ngày 24/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu.

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) 01 điện thoại di động hiệu Mobistar và 01 xe mô tô biển số 72K1-7133, số khung: VTLBCH 014PL4001680, số máy VLF1P52FMH-3*40097680.

(Các vật chứng trên hiện Chi cục THADS thành phố V đang quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng số 114/BB.THA ngày 26/4/2019 và Biên lai thu tiền số 0002039 ngày 26/4/2019).

3. Án phí: Buộc bị cáo Lê Phước T phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 100/2019/HS-ST ngày 05/06/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:100/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về