Bản án 100/2019/HNGĐ-ST ngày 29/07/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH Đ

BẢN ÁN 100/2019/HNGĐ-ST  NGÀY  29/07/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 29 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 259/2019/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 02 năm 2019, về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 126/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 06/6/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 192/2019/QĐST-HNGĐ ngày 02/7/2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Trương Hoàng Ph, sinh năm 1993

Thường trú: 589, Trần Quốc T, Khu phố 4, phường A, thành phố B, tỉnh Đ

- Bị đơn: Bà Lê Ngọc O, sinh năm 1994

Hộ khẩu thường trú: 589, Trần Quốc T, Khu phố 4, phường A, thành phố B, tỉnh Đ

Tạm trú: 250/18, Khu phố 2, phường Thống Nh, thành phố B, tỉnh Đ

(Ông Ph có đơn xin xét xử vắng mặt, bà O vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện, bản tự khai nguyên đơn Ông Trương Hoàng Ph trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Ông và Bà Lê Ngọc O tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn vào năm 2013 tại UBND phường A, thành phố B, tỉnh Đ Từ khi về chung sống với nhau, giữa hai vợ chồng luôn phát sinh rất nhiều mâu thuẫn, xuất phát từ khác biệt trong quan niệm sống giữa hai người, làm tình cảm vợ chồng ngày càng xa cách, mâu thuẫn ngày càng lớn dần, gây xào xáo trong gia đình. Mặc dù cả hai đã cố gắng hòa hợp, dung hòa nhằm cứu vãn cuộc sống hôn nhân, nhưng không thành. Khi vợ ông bỏ về ở phường Thống Nh để sống, ông có theo về ở cùng nhưng hai bên cứ liên tục phát sinh mâu thuẫn, cãi vã, không có tiếng nói chung nên ông phải quay về nhà ông ở A. Hiện cả hai đã ly thân nhau. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, nên ông làm đơn xin được ly hôn với bà O

Về con chung: Có hai người con chung là các cháu Trương Hoàng Bảo Ng, sinh ngày 17/01/2013 và Trương Hoàng Bảo Kh, sinh ngày 17/6/2014. Ly hôn ông Ph xin được nuôi dưỡng hai con và không yêu cầu bà O phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Ông Ph khai hai bên không có tài sản chung cũng như không có nợ chung, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn Bà Lê Ngọc O: đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng bà O vẫn vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, không nộp bản tự khai, không có văn bản giải trình, không đến Tòa án làm việc và tham gia phiên tòa. Vì vậy, không có lời trình bày.

Ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B:

Về việc kiểm sát chấp hành pháp luật tố tụng: việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử trong quá trình giải quyết vụ án đảm bảo theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự. Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Tòa án đã tiến hành đầy đủ các thủ tục theo quy định pháp luật.

Về việc giải quyết tranh chấp:

- Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ vào Điều 9, Điều 19; Điều 53, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận cho Ông Trương Hoàng Ph được ly hôn với Bà Lê Ngọc O.

- Về quan hệ con chung: Có hai người con chung là các cháu Trương Hoàng Bảo Ng, sinh ngày 17/01/2013 và Trương Hoàng Bảo Kh, sinh ngày 17/6/2014. Ông Ph khai hiện đang là người trực tiếp nuôi các cháu Ngọc và Khánh. Với công việc kinh doanh phụ giúp gia đình với thu nhập 10.000.000đ/1 tháng, đủ điều kiện để nuôi hai con. Do đó, áp dụng các Điều 81; 82; 83; 84 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của ông Phương, giao các cháu Kh và cháu Ng cho ông Ph trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc. Chị O được quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở. Vì quyền lợi của con chung, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Khi ly hôn, ông Ph xác định về tài sản cũng như nợ chung cả hai đều không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tuy nhiên. do bà O vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, Tòa án chưa ghi nhận được ý kiến của bà O, nên sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác khi các đương sự có yêu cầu.

Về án phí: Ông Trương Hoàng Ph phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về thủ tục tố tụng:

- Ông Trương Hoàng Ph khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với Bà Lê Ngọc O; Căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xác định quan hệ pháp luật của vụ án là “Tranh chấp ly hôn”. Căn cứ vào Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự xác định Ông Trương Hoàng Ph là nguyên đơn còn Bà Lê Ngọc O là bị đơn trong vụ án.

- Bà Lê Ngọc O có địa chỉ tạm trú hiện nay tại số: 250/18, Khu phố 2, phường Thống Nh, thành phố B, tỉnh Đ Căn cứ các Điều 28, 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự xác định vụ kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đ

- Tòa án đã nhiều lần tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho Bà Lê Ngọc O tại địa chỉ này, nhưng bà O vẫn vắng mặt không có lý do tại các buổi làm việc, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp chứng cứ, tiếp cận, công khai chứng cứ; hòa giải và tham gia phiên tòa. Ngoài ra, vào ngày 29/07/2019, Ông Trương Hoàng Ph có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa. Căn cứ vào khoản 1 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án đưa ra xét xử vắng mặt ông Ph và bà O.

[2]. Về quan hệ hôn nhân:

Ông Ph và Bà Lê Ngọc O tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn vào năm 2013 tại UBND phường A, thành phố B, tỉnh Đ Do đó, cần áp dụng các quy định tại Điều 9; Điều 11; Điều 12 Luật Hôn nhân gia đình năm 2000, xác định đây là hôn nhân hợp pháp. Từ khi về chung sống với nhau, giữa hai vợ chồng luôn phát sinh rất nhiều mâu thuẫn, xuất phát từ khác biệt trong quan niệm sống giữa hai người, làm tình cảm vợ chồng ngày càng xa cách, mâu thuẫn ngày càng lớn dần, gây xào xáo trong gia đình. Mặc dù cả hai đã cố gắng hòa hợp, dung hòa nhằm cứu vãn cuộc sống hôn nhân, nhưng không thành. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, nên ông Ph làm đơn xin được ly hôn với bà O. Xét yêu cầu ly hôn của ông Ph là có cơ sở chấp nhận vì theo quy định tại Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì vợ chồng có nghĩa vụ yêu thương, quý trọng chăm sóc giúp đỡ lẫn nhau để cùng xây dựng gia đình hạnh phúc. Nhưng, trong quá trình chung sống; vợ chồng ông Ph và bà O chung sống với nhau không hạnh phúc, vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn rất nghiêm trọng. Theo Biên bản xác minh nơi cư trú của Công an phường Thống Nh và Biên bản xác minh mâu thuẫn vợ chồng của Ủy ban nhân dân phường Thống Nh thì hiện nay bà O có đăng ký tạm trú tại KP 2, phường Thống Nh và sinh sống tại địa chỉ 250/18, Khu phố 2, phường Thống Nh, thành phố B, tỉnh Đ; giữa hai vợ chồng ông Ph và bà O có mâu thuẫn và đã ly thân với nhau. Mặt khác, quá trình làm việc, mặc dù bà O đã được tống đạt hợp lệ nhiều lần, nhưng đều cố ý vắng mặt, thể hiện việc không có ý định muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng. Như vậy, thể hiện việc mâu thuẫn trong tình cảm vợ chồng giữa ông Ph và bà O là có thật, đời sống chung không có, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, Tòa án căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận cho Ông Trương Hoàng Ph được ly hôn với Bà Lê Ngọc O.

[3]. Về con chung: Có hai người con chung là các cháu Trương Hoàng Bảo Ng, sinh ngày 17/01/2013 và Trương Hoàng Bảo Kh, sinh ngày 17/6/2014. Ông Ph khai hiện đang là người trực tiếp nuôi các cháu Ng và Kh. Với công việc kinh doanh phụ giúp gia đình với thu nhập 10.000.000đ/1 tháng, đủ điều kiện để nuôi hai con. Do đó, để đảm bảo điều kiện của các cháu Ngọc và Khánh cả về vật chất lẫn tinh thần và tránh sự xáo trộn trong tâm lý các cháu, xét thấy cần chấp nhận yêu cầu của ông Ph, giao các cháu Khvà cháu Ng cho ông Ph nuôi dưỡng và chăm sóc. Bà O được quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở. Vì quyền lợi của con chung, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.

[4]. Về tài sản chung và nợ chung: Khi ly hôn, ông Ph xác định về tài sản cũng như nợ chung cả hai đều không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tuy nhiên. do bà O vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, Tòa án chưa ghi nhận được ý kiến của bà O, nên sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác khi các đương sự có yêu cầu.

[5] Về án phí: Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Ông Trương Hoàng Ph phải nộp 300.000đồng án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 228, Điều 266, Điều 271 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Áp dụng các Điều 9; Điều 11; Điều 12 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000;

- Áp dụng Điều 9, Điều 19; Điều 53, Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84; khoản 1 Điều 131 Luật Hôn nhân và gia đình 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ông Trương Hoàng Ph được ly hôn với Bà Lê Ngọc O.

Về con chung: Giao các cháu Trương Hoàng Bảo Ng, sinh ngày 17/01/2013 và Trương Hoàng Bảo Kh, sinh ngày 17/6/2014 cho ông Ph trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc. Bà O được quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở.

Vì quyền lợi của con chung, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Khi ly hôn, ông Ph xác định về tài sản cũng như nợ chung cả hai đều không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tuy nhiên. Do bà O vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, Tòa án chưa ghi nhận được ý kiến của bà O, nên sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác khi các đương sự có yêu cầu.

Về án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Ông Trương Hoàng Ph phải nộp 300.000đ án phí, được trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai số 0003883 ngày 18/01/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa. Ông Ph đã nộp đủ án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm

Ông Trương Hoàng Ph và Bà Lê Ngọc O có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 100/2019/HNGĐ-ST ngày 29/07/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:100/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về