Bản án 100/2018/HNGĐ-ST ngày 21/11/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 100/2018/HNGĐ-ST NGÀY 21/11/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 21 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 975/2018/TLST- HNGĐ ngày 07 tháng 9 năm 2018 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 94/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 13-10-2018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1988; thường trú: Thôn T, xã Q, thị xã S, tỉnh T Hóa; tạm trú: khu phố B, phường B, thị xã T, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

2. Bị đơn: Ông Lê Văn T, sinh năm 1987; thường trú: Thôn T, xã Q, thị xã S, tỉnh T Hóa; tạm trú: khu phố B, phường B, thị xã T, tỉnh Bình Dương.Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

+ Trong đơn khởi kiện ngày 09 tháng 8 năm 2018, quá trình tố tụng, nguyên đơn bà Nguyễn Thị T trình bày:

Bà Nguyễn Thị T và ông Lê Văn T tự nguyện tìm hiểu yêu thương và tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn theo quy định.

Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, ông T không có trách nhiệm với gia đình, không lo làm ăn, vợ chồng thường xuyên lớn tiếng cãi nhau và đánh nhau, nhiều lần vợ chồng cùng gia đình hòa giải, động viên để xây dựng gia đình hạnh phúc nhưng không có kết quả, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, vợ chồng đã ly thân từ tháng 9 năm 2018 đến nay. Nay bà T xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu ly hôn với ông T.

Về con chung: Có 02 con chung tên Lê Mạnh V, sinh ngày 07-10-2017 và Lê Mạnh T, sinh ngày 08-4-2016. Khi ly hôn, bà T yêu cầu trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

Tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu giải quyết.

Chứng cứ, tài liệu nguyên đơn cung cấp:Bản sao: Giấy chứng minh nhân dân bà T, ông T,sổ hộ khẩu hộ khẩu của bà T, ông T, giấy khai sinh các con chung; Bản chính giấy đăng ký kết hôn.

Tại phiên tòa:

- Vị đại diện Viện Kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký Tòa án: Thẩm phán được phân công thụ lý, giải quyết vụ án đã thực hiện đúng, đầy đủ các quy định tại Điều 203 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự về xét xử sơ thẩm.

Về việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt xem như từ bỏ quyền và nghĩa vụ chứng minh của mình.

Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được công bố tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với bị đơn về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.

Những yêu cầu, kiến nghị để khắc phục vi phạm về tố tụng: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 [1] Về thủ tục tố tụng:

Bị đơn ông Lê Văn T đã được triệu tập hợp lệ lần thứ 2 mà vẫn vắng mặt. Nguyên đơn có đề nghị xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định tại khoản 1, 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

 [2] Về quan hệ hôn nhân:

Nguyên đơn bà Nguyễn Thị T và bị đơn ông Lê Văn T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q, thị xã S, tỉnh T Hóa theo giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 16 ngày 16-03-2015 nên hôn nhân hợp pháp, được pháp luật bảo vệ.

 [3] Xét yêu cầu của nguyên đơn:

Theo bà T trình bày thì sau khi kết hôn, vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do ông T không có trách nhiệm với gia đình, chăm lo vợ con dẫn đến vợ chồng hay lớn tiếng cãi nhau, đánh nhau, bà T cũng nhiều lần tạo cơ hội nhưng ông T vẫn không thay đổi nên vợ chồng ly thân từ tháng 9 năm 2018 đến nay.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhiều lần triệu tập nhưng ông T không đến Tòa án làm việc, tham gia các buổi hòa giải, tham gia phiên tòa để Tòa án hòa giải vợ chồng đoàn tụ, điều này thể hiện ông T không có thiện chí xây dựng gia đình. Hơn nữa, từ khi ly thân, ông T không đến thăm hỏi, chăm sóc vợ con, hòa giải mâu thuẫn vợ chồng, điều đó cho thấy quan hệ hôn nhân giữa bà T và ông T không đạt được các yếu tố của một gia đình hạnh phúc, bền vững, hiện nay mỗi người có cuộc sống riêng, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu của bà T về việc xin ly hôn với ông T.

Theo bản sao giấy khai sinh số 59 ngày 28-4-2016 và số 189 ngày 30-10- 2017 của Ủy ban nhân dân phường xã Q, thị xã S, tỉnh T Hóa thì bà T và ông T có 02 con chung tên Lê Mạnh V, sinh ngày 07-10-2017 và Lê Mạnh T, sinh ngày 08- 4-2016. Theo bà T trình bày thì từ khi sinh con đến nay, bà T trực tiếp nuôi con, ông T không có trách nhiệm, không cấp dưỡng nuôi con chung, nên khi ly hôn, bà T yêu cầu trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con. Căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt, nhu cầu thiết yếu, tiếp tục giao con chung cho bà Tiên trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

Tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu giải quyết.

Từ những phân tích trên, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T về việc ly hôn với ông T. Giao 02 con chung cho bà T trực tiếp chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của bà T về việc không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

Ý kiến của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ, phù hợp nên chấp nhận.

Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Nguyên đơn chịu án phí theo quy định.

Vì các lẽ trên;

Căn cứ vào:

QUYẾT ĐỊNH

- Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 70; khoản 4 Điều 147; khoản 1, 3 Điều 228; các Điều 266, 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015; Các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30- 12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án năm 2016.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị T về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” với ông Lê Văn T.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị T được ly hôn với ông Lê Văn T.

- Về con chung: Giao 02 con chung tên Lê Mạnh V, sinh ngày 07-10-2017 và Lê Mạnh T, sinh ngày 08-4-2016 cho bà Nguyễn Thị T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Ghi nhận sự tự nguyện của bà T về việc không yêu cầu ông Lê Văn T cấp dưỡng nuôi con chung.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con, không ai được cản trở. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Về án phí:

Bà Nguyễn Thị T phải chịu 300.000 đồng tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí theo biên lai thu tiền số 0024076 ngày29-8- 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Thuận An.

3. Về quyền kháng cáo:

Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

270
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 100/2018/HNGĐ-ST ngày 21/11/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:100/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về